Giới thiệu
Khoai tây là một trong những loại rau củ phổ biến và cũng là một loại cây lương thực quen thuộc không thể thiếu trong nhiều bữa cơm gia đình. Bên cạnh đó, nó cũng đã trở thành một phần không thể thiếu trong ẩm thực của nhiều nền văn hóa trên thế giới. Từ khoai tây chiên, khoai tây nghiền, đến khoai tây đút lò và nhiều món ăn khác, khoai tây đã trở thành một nguyên vừa liệu phổ biến lại vừa đa dạng trong những bữa ăn hàng ngày.Tuy nhiên, liệu bạn có biết rằng củ khoai tây được ưa chuộng ngày nay lại từng có một lịch sử đen tối không? Khoai tây từng được gọi là “quả táo quỷ” và bị coi là nguyên nhân gây ra nhiều căn bệnh, là loại thức ăn chỉ dành cho lợn. Nếu chưa biết, thì bạn có sẵn sàng để tìm hiểu thêm về điều này không? Dưới góc nhìn của lịch sử, củ khoai tây để đến được tay chúng ta như hiện tại đã phải trải qua rất nhiều thử thách, khó khăn và có một thời kỳ đen tối đầy bí ẩn. Ít ai biết rằng trong quá khứ, khoai tây từng bị coi là "quả táo quỷ" và mang theo những tin đồn u ám. Chính vì vậy, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá nguồn gốc và lịch sử ban đầu của củ khoai tây, cũng như cách mà nó đã trải qua sự thay đổi từ một loại rau củ bị kỳ thị đến vị thịnh vượng và phổ biến như ngày nay. Đồng thời, chúng ta cũng sẽ tìm hiểu về tên gọi "quả táo quỷ" và những điều kỳ bí xung quanh nó.
Nguồn gốc và lịch sử ban đầu
Trình bày về nguồn gốc của khoai tây
Câu chuyện liên quan đến nguồn gốc của cây khoai tây được bắt nguồn từ khoảng 13.000 năm trước tại Nam Mỹ, khi giống cây họ cà này chưa được người dân thuần hóa để trồng và còn mọc dại ở những vùng núi thuộc dãy Andes, phía nam Peru và đông bắc Bolivia ngày nay.Về mặt địa lý, dãy Andes không phải là một địa điểm lý tưởng để có thể nuôi trồng một loài cây lương thực chính. Dãy núi Andes là một hệ thống núi dài nhất thế giới, cao hơn 6.700 m và chắn thành một dải 8.850 km bên bờ Thái Bình Dương, kéo dài từ miền nam Chile và Argentina qua Peru, Bolivia, Ecuador, Colombia, và Venezuela. Đây cũng là một trong những dãy núi trẻ nhất trên trái đất, với nhiều ngọn núi cao vút lên trên 6.000 mét. Dãy núi Andes cũng chứa đựng nhiều loại địa hình và điều kiện khí hậu khác nhau, từ sa mạc khô cằn đến rừng nhiệt đới ẩm ướt, tạo ra sự đa dạng sinh học đáng kinh ngạc.
Có rất nhiều núi lửa và chúng luôn hoạt động rải rác trên dãy Andes, ngoài núi lửa thì kết quả của những quá trình đứt gãy địa chất xảy ra thường xuyên cũng đã một phần nào đó đẩy khu vực này vào tình trạng thường xuyên phải đối mặt với động đất, lũ quét và sạt lở nghiêm trọng. Chính vì vậy mà ngay cả trong những ngày yên bình nhất, thì khí hậu của Andes vẫn rất khắc nghiệt để một loài cây lương thực nào đó có thể sinh sôi và phát triển tươi tốt được.
Nhiệt độ trên núi có thể thay đổi đột ngột từ 24 độ C xuống đến mức đóng băng chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ. Không khí ở đây thì cũng quá loãng để giữ mức nhiệt ổn định. Và ở một vùng đất khắc nghiệt như vậy, thì chỉ có ngô, quinoa - hạt diêm mạch và khoai tây mới có thể mọc được.
Nguồn gốc của củ khoai tây
Những người Inca này sùng bái cây khoai tây cũng là điều dễ hiểu, bởi nhờ có khoai tây, mà người Inca mới có thể xây dựng được một đế chế hùng mạnh, gần như bất khả chiến bại ở Nam Mỹ vào thời bấy giờ và được gọi là: Đế quốc Inca. Loại củ giàu tinh bột này chính là yếu tố then chốt đã cung cấp cho tộc người Inca năng lượng để chinh phạt và thôn tính các bộ lạc xung quanh họ - những tộc người ăn ngô. Từ những năm 1438 đến 1533, người Inca đã có thể kiểm soát được phần lớn phía tây Nam Mỹ, họ sống tập trung ở dãy núi Andes, và trở nênh hùng mạnh hơn thông qua những cuộc chinh phạt và đồng hóa hòa bình các bộ tộc khác. Ở thời kì hoàng kim của mình, đế quốc này đã thống nhất được toàn bộ Peru, phía tây nam của Ecuador, phía tây và nam trung bộ của Bolivia, phía tây bắc của Argentina, hầu hết vùng đất Chile ngày nay và phía tây nam Colombia, và đế chế này hoàn toàn có thể sánh ngang với các đế quốc ở lục địa Á-Âu khác.
Người Inca không chỉ là dân tộc người đầu tiên thuần hóa được cây khoai tây, mà họ cũng đã phát minh ra được một phương pháp cất trữ đông lạnh khoai tây vào thời đó, giúp bảo vệ những củ khoai tây khỏi nấm mốc, chuột bọ và ngăn không cho khoai tây nảy mầm. Bằng cách này, củ khoai tây hoàn toàn có thể được bảo quản trong một thời gian dài mà không lo bị hư hại hay là bị mất đi giá trị dinh dưỡng.
Và cũng chính vì những lí do trên mà khoai tây đã trở thành một "đồng tiền" trong đế chế. Hoàng gia Inca có thể thu thuế của những người nông dân bằng khoai tây, sau đó lưu trữ chúng ở trong các kho, và sau đó sẽ mang đi giải ngân cho các binh lính, thợ xây và nô lệ như là một phần tiền công của họ.
Trong khi những người Ai Cập họ ăn và trồng lúa mì, lúa mạch để xây dựng nên những kim tự tháp vĩ đại, thì cùng với đó khoai tây đã giúp Đế chế Inca xây dựng lên một đế chế vững mạnh thời đó, những ngôi đền thờ hoành tráng, và những thành phố dát vàng lộng lẫy cho riêng mình.
Tuy khoai tây đã có nguồn gốc từ vùng núi Andes ở Nam Mỹ, nơi mà người Inca đã trồng và sử dụng chúng từ hàng ngàn năm trước. Nhưng khoai tây đã trở nên phổ biến hơn và trở thành một trong những loại cây lương thực quan trọng nhất trên thế giới chỉ sau khi được mang về châu Âu từ cuộc thám hiểm của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16. Từ đó, khoai tây đã được nhân giống lan rộng và trở thành một phần quan trọng trong ẩm thực thế giới và nông nghiệp toàn cầu.
Khoai tây được đem về Châu Âu như thế nào?
Đế chế Inca đã thật sự đạt đến đỉnh cao của sự thịnh vượng. Trong suốt thế kỷ thứ 15, các “Sapa Inca” đã không ngừng thúc đẩy mở rộng đường biên giới của đế chế vào đến tận phía Bắc và phía Nam bằng sức mạnh quân sự, cụ thể là vào những năm 1527, Đế chế Inca đã bắt đầu mở rộng lãnh thổ của mình từ vị trí ở phía Bắc được xem là quốc gia Ecuador ngày nay, dọc xuôi xuống những vùng lãnh thổ thuộc miền Trung Chile ngày nay. Để có thể chinh phục được một vùng đất rộng lớn như vậy đồng nghĩa với việc Đế chế Inca hiện đang nắm trong tay một đội quân đáng gờm. Hơn nữa, người Inca không phải là một quốc gia quân quốc hay quân phiệt thuần túy, vậy mà họ lại có thể sở hữu một trong những nền văn minh loài người tiên tiến nhất ở Châu Mỹ vào thời điểm đó.Để có thể liên kết được với những vùng lãnh thổ khác, người Inca đã nghiên cứu và cho xây dựng một hệ thống đường xá dọc theo cả đế chế với khoảng cách lên tới gần 25.000 dặm (tương đương với 40.200 km), khoảng cách này gấp 3 lần đường kính của Trái Đất. Ngoài sức mạnh về quân sự thì người Inca còn rất giỏi và khéo léo trong các ngành nghề thủ công. Mặc dù họ đã chế tác ra rất nhiều món trang sức bằng vàng và bạc khác nhau, mà những món trang sức này sau đó đều bị những nhà chinh phục người Tây Ban Nha cướp đoạt, nhưng ngành dệt kim của họ lại luôn được xem là đỉnh cao của nghệ thuật ở Châu Mỹ.
Nói ngắn gọn thì Đế chế Inca đã được xem là một nền văn minh phát triển cao của nhân loại. Thực tế là, ngay cả người Tây Ban Nha sau này khi tiến hành hành xâm lược Inca cũng pải bất ngờ và ngạc nhiên trước những gì họ được chứng kiến về sự phát triển thịnh vược của Đế chế Inca.
Đế chế Inca đã phát triển cực thịnh đến thế kỷ thứ 15, sau đó bắt đầu suy yếu dần khi bước sang thế kỷ thứ 16, đó cũng là thời điểm mà người Châu Âu đầu tiên đã khám phá ra lục địa mới là Châu Mỹ, nhà thám hiểm đã khám phá ra điều đó là Christopher Columbus, sau cuộc thám hiểm của ông thì sau đó đã có sự xâm nhập của các mầm bệnh mới lây lan vào lục địa Châu Mỹ. Các bệnh sởi và đậu mùa cũng đã bắt đầu lây lan từ Trung Mỹ vào Inca là vì thế, vì đây là những mầm bệnh mới cho nên chúng đã gây ra những đợt dịch chết người không thể cứu chữa cho toàn bộ người dân ở đây.
Khoai tây được đem về Châu Âu như thế nào?
Ở thời điểm đó, đế chế Inca đang phải đối mặt với 2 cuộc khủng hoảng lớn. Một là họ gặp phải dịch bệnh lây lan nghiêm trọng chưa từng có đã xuất hiện trong lịch sử của họ. Và hai là cuộc nội chiến, tranh giành ngôi vị giữa hai anh em Atahualpa và Húascar.
Chính hai cơn khủng hoảng này là lí do đầu tiên đã khiến cho một đế chế hùng mạnh trong suốt 3 thế kỷ như Inca dần bước vào thời kỳ suy thoái. Và thật xui xẻo làm sao cùng lúc đó, Tây Ban Nha cũng đã để mắt tới vùng đất mới này.
Người Tây Ban Nha đã bắt cóc vua Atahualpa của Inca, sau đó tiến hành cướp bóc mọi đền thờ và kho báu ở trên khắp đế chế. Sau khi đã cướp bóc đủ số của cải đủ để lấp đầy cả một căn phòng với đầy vàng bạc châu báu, thì người Tây Ban Nha cũng đã không quên ném vào xó thuyền một vài củ "nấm cục" hay đúng hơn là khoai tây theo cách gọi của họ, những củ khoai tây này nhăn nhúm, bám đầy bùn đất và thật sự trông chẳng có gì là quý giá cả. Trải qua quá trình vượt qua Đại Tây Dương xa xôi, những củ khoai tây đầu tiên đã bắt đầu du nhập vào Châu Âu như thế.
Các cuộc nghiên cứu lịch sử đã ước tính rằng, trong đợt cướp bóc vàng, bạc của mình ở Inca, người Tây Ban Nha đã có thể thu về một khối lượng vàng bạc khổng lồ tương đương với 45 triệu Euro ở thời điểm hiện tại. Nhưng có một sự thật lạ lùng và ít ai có thể ngờ tới là, thứ quý giá nhất mà họ cướp về vốn không phải là vàng, bạc, châu báu, mà lại là vài củ khoai tây xấu xí bị vứt lăn lóc dưới sàn thuyền ngày đó.
Từng là thứ đem đến sự thịnh vượng cho Đế chế Inca, nay khoai tây lại tiếp tục mang sự thịnh vượng không kém phần của nó đến cho những quốc gia khác ở Châu Âu, và cũng biến họ thành những đế quốcphát triển cường thịnh như Inca. Tuy nhiên khoai tây khi đến Châu Âu lại không thể nhanh chóng được ưu ái như ở Inca, mọi chuyện không hề diễn ra đơn giản chỉ trong một sớm một chiều.
Khi khoai tây được người Tây Ban Nha đem về từ Nam Mỹ, thì chúng chỉ nhận được những ánh mắt dè chừng và không mấy thiện cảm. Vào năm 1570, một số nông dân Tây Ban Nha cũng đã bắt đầu nghiên cứu, thử nghiệm trồng khoai tây trên quy mô nhỏ. Nhưng sau khi thu hoạch được, thì củ của nó không được người dân chào đón mà chủ yếu chỉ được dùng để làm thức ăn cho lợn.
Vào cuối thế kỷ 16, khoai tây đã tìm được đường sang Italia. Sau đó đến đầu những năm 1600, nó đã xuấn hiện ở Áo, Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ, Anh, Đức, Bồ Đào Nha, Ireland và Pháp. Nhưng thật không may là không một nơi nào của Châu Âu chào đón thứ củ kì lạ này cả.
Khoai tây và "quả táo quỷ"
Sự kỳ thị và đánh đồng khoai tây với "quả táo quỷ" trong quá khứ
Vì khoai tây có nguồn gốc từ Nam Mỹ, nên tất nhiên là chúng sẽ không thể nào có thể xuất hiện ở trong Kinh Thánh. Và chỉ vì một lí do cỏn con như thế mà Giáo hội Công giáo đã nghiễm nhiên cho rằng Chúa không hề muốn con người ăn khoai tây.Hơn nữa, so với những loài cây thông thường khác thì loài cây này lại có những đặc tính dị biệt và hoàn toàn khác đối với hiểu biết của người Châu Âu. Khoai tây không hề được mọc lên từ hạt, mà chúng sinh trưởng và phát triển từ củ và những mảnh củ.
Nếu những người nông dân đem chôn nguyên một củ khoai thây xuống đất, thì nó sẽ mọc mầm và hoàn toàn có thể phát triển thành một cây khoai tây mới. Nếu cắt một củ ra làm hai hay ba hay 4 miếng nhỏ, thì họ sẽ nhận lại hay hay ba hay bốn cây khoai con. Chính sự kỳ lạ này đã khiến khoai tây được đặt cho cái tên là "táo quỷ", để biểu thị những quả táo có vẻ ngoài nhăn nhúm và có thể sinh sôi trong lòng đất.
Sự kỳ thị và đánh đồng khoai tây với "quả táo quỷ" trong quá khứ
Đa có những cuộc thử nghiệm ăn khoai tây đầu tiên diễn ra ở Châu Âu, tuy nhiên những cuộc thử nghiệm này lại không mấy khi có kết thúc tốt đẹp. Bởi người ta chỉ ăn thử những củ khoai tây đã nhô lên khỏi mặt đất, nghĩa là lúc chúng đã mọc mầm và có chứa độc tố trong củ, bởi vậy họ thường bị ngộ độc thật. Một số các nhà khoa học khác còn cho rằng khoai tây chính là nguyên nhân gây nên bệnh phong ở người, chỉ vì củ của nó trông nhăn nheo, méo mó giống như những người mắc bệnh phong.
Denis Diderot là một nhà văn, nhà triết học và nhà soạn thảo người Pháp, ông nổi tiếng với việc biên soạn bộ từ điển tri thức lớn nhất thế giới vào thời điểm đó. Ông cũng là một trong những người sáng lập và biên tập viên chính của bộ bách khoa toàn thư nổi tiếng "Encyclopédie". Diderot cũng nổi tiếng với tư duy tiến bộ và ảnh hưởng lớn đến thời kỳ Chiến tranh Pháp - Áo. Và ông đã từng viết trong cuốn Bách khoa toàn thư "Encyclopédie" (được xuất bản ở Pháp từ năm 1751 đến năm 1756) - cuốn sách đầu tiên tóm tắt được những tư tưởng khai sáng ở Châu Âu như sau: "Bất kể bạn nấu nướng khoai tây như thế nào, cái rễ của của nó cũng là một loại thực phẩm bồn bột và vô vị".
Đối với Diderot, ông chỉ coi khoai tây là một loại thực phẩm dành riêng cho những người "ăn để sống". Những người nông dân khốn khổ, hay những binh lính trong quân đội trong nạn đói có thể ăn khoai tây để no bụng. Bởi dưới góc nhìn của ông khoai tây là một thứ thực phẩm gây chướng bụng, nhưng chúng có thể cung cấp năng lượng để giúp họ sống sót.
Sự thịnh vượng của khoai tây
Sự thay đổi về cách nhìn đối với củ khoai tây
Tuy nhiên, cách để khoai tây thể hiện được vị thế quan trọng của mình lại dựa vào nạn đói xảy ra vào thời bấy giờ - đây được xem là cơ hội duy nhất để khoai tây có thể vươn mình cạnh tranh với lúa mì ở Châu Âu. Người ta thước ví rằng, vào thời điểm đó, đói là một cái gì đó luôn thường trực ở châu lục này.Theo thống kê của nhà sử học Fernand Braudel - một nhà sử học người Pháp nổi tiếng với công trình nghiên cứu về lịch sử kinh tế và xã hội. Ông được biết đến với việc phân tích sự phát triển dài hạn của nền văn minh và nền kinh tế châu Âu. Braudel cũng nổi tiếng với việc áp dụng phương pháp "lịch sử dài hạn" để nghiên cứu sự thay đổi trong xã hội và kinh tế. Nước Pháp đã từng phải chịu đựng lên tới hơn 40 nạn đói xảy ra diện rộng trên quy mô toàn quốc, trong khoảng thời gian chỉ vọn vẹn từ năm 1500 đến 1800. Không chỉ nước Pháp mà nước Anh cũng đã rơi vào hoàn cảnh, tình trạng tương tự, với 17 nạn đói diễ ra trên toàn đất nước từ năm 1532 đến 1623. Cả một lục địa phát triển thời bấy giờ chỉ đơn giản là không có khả năng tự nuôi sống.
Frederick Đại đế còn được gọi là Friedrich II của Phổ, là một vị vua nổi tiếng của Vương quốc Phổ vào thế kỷ 18. Ông được biết đến với tên gọi "Friedrich Đại đế", ông cũng được xem là một nhà cải cách và triết học gia. Ông cũng nổi tiếng với vai trò quan trọng trong lịch sử quân sự và chính trị của châu Âu. Và Frederick Đại đế cũng là người đầu tiên có thể nhìn ra được tiềm năng vượt trội của khoai tây trong việc chống lại nạn đói vào thời điểm ấy. Vào năm 1756, Frederick đã cho ban hành sắc lệnh Kartoffelbefehl, hay còn gọi là "Đạo luật khoai tây", và ông đã bắt buộc mọi thần dân của mình đều phải trồng loài cây này.
Ngoài ra thì chính Frederick cũng là người đã phổ biến cụm từ "khoai tây" để thay thế cho cái tên cũ mà những người nông dân thường hay dùng để gọi loại cây này là "nấm cục".
Những ngày đầu tiên khi mới ban sắc lệnh thì việc thực thi sắc lệnh ban đầu đã diễn ra không mấy suôn sẻ. Ở nước Phổ khi đó ở thời điểm đó đã có một câu nói như sau: "Là der Bauer nicht kennt, frisst er nicht", có nghĩa là "Thứ mà nông dân không biết nó là gì, họ sẽ không ăn".
Kolberg - một thị trấn nhỏ thời đó, thậm chí còn dám trả lời lại sắc lệnh của nhà vua rằng: "Cái thứ đó [khoai tây] không có mùi, cũng không có vị, thậm chí những con chó còn không thèm ăn chúng, vậy chúng có ích gì với chúng tôi không?".
Để đối phó lại với sự chống đối cùa người dân, Frederick đã nghĩ ra một kế sách hay. Đó là ông sẽ cho trồng khoai tây với số lượng lớn bạt ngàn trên các trang trại của Hoàng gia ở vùng Berlin bây giờ. Sau đó, Frederick sẽ cắt cử một đội lính canh, và họ có nhiệm vụ là bảo vệ cánh đồng.
Bởi ông đã nắm được tâm lý chung của đại đa số dân chúng trên đất nước là hễ có một thứ gì đó được vua cho bảo vệ nghiêm ngặt, thì họ sẽ nghĩ những thứ đó đó là những thứ quý giá. Frederick Đại đế đã làm tăng sự tò mò của dân chúng bằng cách dặn những người lính canh, trong lúc canh gác phải giả vờ ngủ gật hoặc thường xuyên sao nhãng nhiệm vụ của mình. Và tất nhiên chính những điều này đã gây tò mò và thực sự có thể thu hút được sự chú ý của những tên trộm.
Sau đó thì hằng đêm, những tên trộm sẽ đều đến những cánh đồng hoàng gia để đánh cắp khoai tây. Và chẳng mấy chốc, loài cây này lại được rao bán tràn lan tại thị trường chợ đen. Rồi chuyện gì đến cũng sẽ đến những người nông dân bắt đầu quay trở lại quan tâm đến những củ khoai tây vì nó bán được giá. Và thế là loài cây này đã có thể xâm nhập thành công hầu hết mọi mảnh vườn ở nước Phổ, chúng đã phát huy tác dụng của mình là để cứu sống nhiều người dân qua những mùa vụ thu hoạch lúa mì thất bát.
Khoai tây với đặc tính dễ trồng, phát triển, sinh trưởng tốt, dễ bảo quản, giàu tinh bột và đem lại nhiều năng lượng cho người sử dụng, đây cũng chính là nguồn lương thực chủ yếu đã giúp nuôi sống quân đội Phổ trong chiến tranh Bảy năm - là một cuộc xung đột quân sự xảy ra từ năm 1756 đến năm 1763, chủ yếu diễn ra tại châu Âu, châu Bắc Mỹ và Ấn Độ. Cuộc chiến này liên quan đến các cuộc xung đột giữa các cường quốc châu Âu, bao gồm Anh, Pháp, Áo, Nga và Phổ. Tuy nhiên, trên thực tế cuộc chiến Bảy năm là cuộc chiến giữa vua Phổ - Friedrich II Đại Đế - và Nữ hoàng Áo Maria Theresia. Chiến tranh Bảy năm có ảnh hưởng lớn đến cả hai phương diện quân sự và kinh tế, và cuối cùng dẫn đến sự thay đổi lớn trong bốn lục địa chính. Và nhờ có củ khoai tây bị chê cười ngày nào, đã giúp Frederick Đại đế đánh bại cả liên quân hùng mạnh giữa Áo và Pháp.
Mối liên hệ của khoai tây và nước Pháp
Antoine-Augustin Parmentier là một nhà nghiên cứu và nhà y học người Pháp, ông đã tham gia vào quân đội Pháp và sau đó trở thành một nhà nghiên cứu và là người đưa ra các phương pháp để sử dụng khoai tây trong ẩm thực. Ông được biết đến là người đã có công lớn trong việc thúc đẩy sử dụng khoai tây làm thực phẩm cho người dân Pháp trong thế kỷ 18 và sử dụng khoai tây như một nguồn lương thực quan trọng ở châu Âu. Ông cũng đã đóng góp vào việc phát triển công thức nấu ăn và ứng dụng y học của khoai tây. Ông tham gia vào quân đội Pháp trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, và làm việc dưới hình thức là một bác sĩ quân y. Vào thời điểm mà quân Pháp đã thua thảm bại trước Frederick Đại đế của nước Phổ, thì khoai tây đối với người dân Pháp vẫn chỉ là một thứ thức ăn bỏ đi dành cho lợn.Nhưng khi Parmentier bị bắt và phải làm tù binh phục vụ trong doanh trại của quân Phổ và trong hoàn cảnh bất đắc dĩ ấy ông đã phải ăn khoai tây, chính vù thế mà ông nhận thấy rằng loài cây thực vật này không hề có độc như ông đã biết, và ông cũng nhận ra rằng những quan niệm sai lầm của người Pháp về khoai tây khi đó thật sự không đúng. Loại củ bị ghẻ lạnh, bị cấm trồng và chỉ dành để làm thức ăn cho lợn là khoai tây ở Pháp lại chính là thức ăn trọng yếu giúp nuôi dưỡng và đem lại sức mạnh, ưu thế cho quân Phổ.
Vậy nên trong suốt thời gian 3 năm bị giam giữ ở Phổ, Parmentier nhận thấy mình hoàn toàn có thể ăn khoai tây để sống sót, thậm chí ông còn sống rất khỏe mạnh mà không hề bị bệnh. Nên khi được trả tự do để trở về nước Pháp vào năm 1763, ông đã sử dụng hết toàn bộ những kiến thức và kinh nghiệm mà một dược sĩ của mình để tập trung nghiên cứu, phát triển loài cây này.
Sau những ngày nghiên cứu về khoai tây thì điều mà Parmentier đã tìm thấy là khoai tây không hề độc, trong điều kiện người dân sử dụng chúng chỉ ăn những củ chưa mọc mầm. Và ông cũng đã tính toán được rằng, trên cùng một diện tích canh tác các loại cây nông nghiệp như nhau, thì khoai tây có thể cung cấp nhiều hơn một lượng calo gấp từ 2 đến 4 lần so với các loại ngũ cốc khác. Và Parmentier càng nhận ra khoai tây chính là một loại lương thực vô cùng tuyệt vời, tuy nhiên vấn đề ở đây chỉ là người dân Pháp sẽ không chịu ăn nó.
Để lật ngược lại tình thế như hiện tại, Parmentier cũng đã phải áp dụng một kế sách tương tự như Frederick Đại đế. Ông cũng trồng khoai tây trên các mảnh vườn và cũng cho nhiều người đến để giả vờ bảo vệ chúng. Nhưng hoàn cảnh của Parmentier khác nhiều so với Frederick Đại đế của nước Phổ, ông không có nhiều quyền hạn như Frederick Đại đế. Tuy nhiên, với trí thông minh tuyệt vời của mình ông biết công việc của mình phải được thực hiện như thế nào.
Ông đã liên tục cầm những kết quả nghiên cứu do mình nghiên cứu để mang đi thuyết phục các bác sĩ, các nhà khoa học, giới quý tộc và cả những thành viên của hoàng gia về lợi ích vô cùng tuyệt vời của khoai tây. Chính vì sự vui vẻ và cởi mở của ông, nên hầu như tất cả mọi người đã trở thành những "người có sức ảnh hưởng" hay còn gọi là KOL của thời bây giờ, trong chiến dịch "marketing" khôn khéo đỉnh cao của Parmentier dành cho khoai tây.
Có câu chuyện kể lại rằng trong một lần tình cờ vua Louis XVI và nữ hoàng Marie Antoinette đang đi dạo trong khu vườn Versailles, Parmentier đã cẩn thận hái tặng mỗi người một bông hoa khoai tây. Nữ hoàng Antoinette thì đã dùng bông hoa tím ấy để cài lên tóc còn nhà vua thì dùng nó để đặt lên khuy áo của mình.
Và Khi vua Louis XVI tò mò hỏi Parmentier về loài cây có hoa tím ấy, thì ông đã xin được một mảnh đát trong khu đất hoàng gia dành để trồng khoai tây. Sau đó các cận thần cũng dần bắt chước làm theo nhà vua. Tin tức bắt đầu được lan truyền đi gây ra hiệu tò mò cho công chúng. Và đây cũng là lúc Parmentier bắt đầu diễn lại quá trình mà Frederick Đại đế đã thực hiện ở Phổ.
Ông cho những người binh lính tỏa ra bên ngoài Paris, đi trồng các cánh đồng khoai tây rộng lớn rồi lại giả vờ canh gác. Người dân sau đó đã đi trộm khoai tây và cũng mang về vườn nhà mình để trồng.
Đến năm 1793, Parmentier tiếp tục nghiên cứu và viết ra sau đó đem đi in 10.000 cuốn cẩm nang trồng khoai tây để phát về mỗi vùng, mỗi khu vực trên toàn lãnh thổ Pháp. Ông cũng cho phát hành cả cuốn "Nấu nướng quốc dân", trong đó chứa tới hơn 20 công thức chế biến các món từ khoai tây đã được ông dày công nghiên cứu, để khiến những món ăn được làm từ khoai tây trở nên ngon hơn và có thể chinh phục được khẩu vị khó tính của người Pháp.
Và có thể bạn chưa biết, trong cuốn sách này đã dạy cho những người Pháp cách làm món khoai tây chiên huyền thoại nổi tiếng đến tận bây giờ, "French fries" - là một món ăn phổ biến trên khắp thế giới hiện nay. Chúng được làm từ những miếng khoai tây được cắt thành từng thanh dài, sau đó chiên vàng giòn. Món khoai tây chiên thường được dùng để ăn kèm với sốt cà chua hoặc sốt mayonnaise.
Cách làm khoai tây chiên theo hướng dẫn được ghi trong cuốn ‘‘Nấu nướng quốc dân’’ của Parmentier được thực hiện như sau: "Đầu tiên phải cho các nguyên liệu gồm, bột khoai tây, trứng và nước đánh đều lên với nhau. Sau đó thêm vào hỗ hợp trên một muỗng dầu, một muỗng eau de vie (rượu), muối và tiêu. Tiếp tục đánh đều hỗn hợp trên cho đến khi hỗn hợp sền sệt và không còn cục bột nào. Sau đó chúng ta chỉ việc gọt vỏ khoai tây, cắt lát vừa ăn, rồi cho vào bột. Cuối cùng, vớt những miếng khoai tây ấy ra và cho vào chiên trong chảo dầu nóng cho đến khi miếng khoai có màu sắc đẹp và bắt mắt".
Trước khi khoai tây được phổ biến ở nước Pháp, hằng năm, những người nông dân chỉ có thể sản xuất được vừa đủ lượng ngũ cốc cần thiết để nuôi sống cả đất nước, và lượng ngũ cốc này chỉ vừa đủ nếu không có vấn đề gì xảy ra với mùa màng của họ, còn nếu có mất mùa thì dĩ nhiên ngũ cốc mà họ sản xuất ra không hề đủ ăn cho cả đất nước. Và thật đáng tiếc, bởi không phải chuyện gì cũng sẽ xảy ra như con người dự đoán, những điều không may mắn lại là những điều hay xảy ra nhất. Mất mùa, thiên tai và cả chiến tranh xảy ra thường khiến cho nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm ở Pháp hết sức bấp bênh.
Có tới hàng trăm nạn đói đã xảy ra liên tục dưới quy mô vùng miền nhỏ. Và cứ trung bình 7 năm một lần, nước Pháp sẽ lại phải đối mặt với một nạn đói lớn xảy ra trên quy mô toàn quốc. Thật may là, sự xuất hiện của khoai tây cuối cùng cũng đã giải quyết được bài toán tuy cơ bản nhưng lại không dễ trong vấn đề lương thực của nước Pháp.
Chỉ sau khi bài toán cơ bản nhưng lại khó tìm ra phương án ấy được giải quyết, nước Pháp mới có thể tiến được tới Cách mạng (từ năm 1789 đến năm 1799) hay còn gọi là Cách mạng Tự do, là một sự kiện lịch sử quan trọng tại Pháp. Nó bắt đầu vào ngày 5 tháng 5 năm 1789 khi Đại hội Quốc dân Pháp mở cửa tại Versailles và kéo dài cho đến cuối thế kỷ 18. Cách mạng này đã đánh dấu sự chấm dứt của chế độ quân chủ tối cao và việc thành lập chính phủ dân quyền mới tại Pháp. Và sau cuộc Cách mạng Pháp thì sau đó là các cuộc chiến tranh của Napoléon, diễn ra từ năm 1803 đến năm 1815. Đây là một chuỗi các cuộc chiến tranh do Napoleon Bonaparte của Pháp lãnh đạo, trong đó Pháp và các đồng minh của nước này chiến đấu chống lại một số quốc gia châu Âu khác. Chiến tranh này bao gồm nhiều cuộc chiến lớn nhỏ và có ảnh hưởng lớn đến cả châu Âu và trên toàn thế giới.
Napoleon là một người ủng hộ các ý tưởng về một xã hội Cộng hòa tự cung tự cấp, vậy nên ông đã khuyến khích nông dân trong việc trồng khoai tây. Và ngay lập tức sau đó, sản lượng khoai tây trên toàn lãnh thổ Pháp đã tăng lên tới 15%.
Các đồng minh của Pháp sau đó đã nhìn vào bài học khoai tây trên nước Pháp và cũng đã bắt đầu áp dụng trồng rộng rãi giống cây trồng tuyệt vời này, thậm chí là những kẻ thù của họ cũng đã bắt đầu học theo. Cho dến những năm cuối cùng trong cuộc Chiến tranh Napoleon, khoai tây lúc này đã trở thành thực phẩm chính trong hầu hết các chế độ ăn của toàn bộ người Châu Âu.
Khoai tây đã thật sự mang đến sự thịnh vượng cho các đế quốc
Nhận xét về giai đoạn lịch sử đầy thăng trầm này, Christian Vandenbroeke, một nhà nghiên cứu sử học người Bỉ từng nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử Tây Âu, một giải pháp dứt khoát cho vấn đề lương thực đã được đưa ra".
Một mảnh đất nhỏ trồng khoai tây và cần thêm sữa của một con bò nữa là bây giờ có thể đủ sức nuôi sống cả một gia đình, bởi sự kết hợp này đã đủ để cung cấp tất cả các vitamin, vi chất cần thiết cho một cơ thể và tạo ra một chế độ ăn uống lành mạnh, khoa học. Khoai tây còn giàu vitamin C đến mức chúng đã giúp chấm dứt bệnh scurvy - là một loại bệnh xảy ra khi cơ thể thiếu hụt vitamin C, được gây ra bởi việc chúng ta hấp thụ đủ lượng vitamin C cần thiết có trong thức ăn hàng ngày. Triệu chứng của bệnh bao gồm chảy máu nướu, sưng lưỡi và mệt mỏi. Bệnh này có thể được điều trị một cách đơn giản và ngăn ngừa bằng cách bổ sung vitamin C vào chế độ ăn uống hàng ngày. Và căn bệnh không quá phức tạp này đã từng xảy ra tràn lan khắp lục địa lúc bấy giờ.
Khoai tây chính là cứu tinh đã giúp giải quyết được tất cả những nạn đói đã xảy ra từ rất lâu trên một dải đất dài 2.000 dặm từ Ireland đến dãy Ural của Nga. Và cuối cùng thì những người dân trên lục địa này cũng đã có thể tự làm ra những bữa tối thơm ngon, giàu dinh dưỡng cho chính mình và gia đình.
Không những giúp nhiều quốc gia giải quyết nạn đói kéo dài, mà khoai tây còn là thứ lương thực đặc biệt đã giúp đưa toàn bộ Châu Âu trở nên phồn thịnh. Khi có nguồn lương thực tăng nhanh và đầy đủ đã dẫn đến tăng trưởng dân số, và khi dân số phát triển tốt cũng sẽ khiến kinh tế phát triển đi lên. Điều này từng được nhà kinh tế học Adam Smith - là một nhà kinh tế học và triết gia người Scotland, nhắc đến trong cuốnsách kinh điển làm nên tên tuổi của ông là cuốn:"Sự giàu có của các quốc gia" (The Wealth of Nations) xuất bản năm 1776. Ông được coi là "cha đẻ" của kinh tế học hiện đại và nổi tiếng với Thuyết "Bàn tay vô hình" - The theory of the Invisible Hand và quan điểm về công bằng, tự do kinh tế. Adam Smith đã có ảnh hưởng lớn đối với triết lý kinh tế và chính trị hiện đại.
Một trong những ví dụ có thể được xem là ấn tượng nhất về tiềm năng của khoai tây trong việc giúp thay đổi mô hình dân số đã xảy ra ở Ireland, nơi mà khoai tây đã bắt đầu trở thành thức ăn chủ yếu vào năm 1800. Khoảng 40% dân số của Ireland đã không ăn bất kể một loại thức ăn ngữ cốc rắn nào khác ngoài khoai tây. Và chỉ trong vòng hơn 60 năm, từ năm 1780 đến năm 1841, thì dân số của họ đã tăng lên gấp đôi là khoảng 8 triệu người.
Điều đáng nói ở đây là, quá trình tăng trưởng dân số đó không phải là dựa trên kết quả của việc mở rộng phát triển công nghiệp hóa hay do quá trình cải cách kỹ thuật nông nghiệp. Mà quá trình đó chỉ là kết quả duy nhất của việc trồng và sử dụng khoai tây. Mặc dù Ireland là đất nước có tập quán sở hữu, sử dụng đất đai rất lạc hậu so với nhiều nước khác ở Châu Âu tại thời kỳ đó, nhưng chính các đặc tính tốt vượt trội của khoai tây đã giúp cho ngay cả một người nông dân nghèo khó nhất ở đất nước này cũng có thể trồng được nó một cách đơn giản nhất.
Những người nông dân trồng khoai tây trong tâm thế không cần bất kỳ một khoản đầu tư hay phải lao động nặng nhọc nào, khoai tây dễ trồng tới mức là thứ mà ngay cả trẻ em cũng có thể trồng, thu hoạch và chế biến chúng. Khoai tây khi ăn cũng không yêu cầu chúng ta phải cắt, xay xát hay nghiền phức tạp như lúa mì nhưng lại nhiều chất dinh dưỡng và calo hơn. Sự thịnh vượng có từ củ khoai tây nhăn nhúm ngày nào cũng đã góp phần giúp làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong cao ở trẻ sơ sinh, khuyến khích người dân kết hôn sớm và gia tăng dân số.
Nancy Qian và Nathan Nunn, hai nhà kinh tế học tại Đại học Yale và Harvard - nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển và kinh tế học phát triển. Cả hai đã đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu về tác động của lịch sử và văn hóa đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Công trình nghiên cứu của họ đã giúp mở ra những hiểu biết mới về cách mà quá khứ có thể ảnh hưởng đến tương lai của một nền kinh tế. Và hai người đã thực hiện một nghiên cứu về sự ảnh hưởng của khoai tây dẫn đến quá trình bùng nổ dân số tại Châu Âu, và đề tài nghiên cứu của họ có tiêu đề ‘‘Đóng góp của khoai tây cho dân số và đô thị hóa: Bằng chứng từ một thí nghiệm lịch sử’’ <the potato's="" contribution="" to="" population="" and="" urbanization:="" evidence="" from="" an="" historical="" experiment="">. Họ đã có các so sánh về mức tăng trưởng dân số ở 132 quốc gia vào thời điểm trước và sau năm 1700.
Kết quả thống kê của hai người đã cho thấy, dân số của Châu Âu đã có sự nhảy vọt một cách bất ngờ từ 126 triệu người vào đầu thế kỷ 18 lên tới 300 triệu người vào đầu thế kỷ 20. Và sự thật là nơi nào mà khoai tây được trồng và sử dụng nhiều nhất cũng là nơi có mức tăng trưởng dân số đạt mức cao nhất. Và thật buồn cười làm sao khi mà lần đầu tiên trong lịch sử, các quốc gia có dân số bùng nổ không những không tạo ra những nạn đói hàng loạt, mà đơn giản chỉ là đẩy thêm người dân vào phát triển ở các đô thị chật chội.
Theo Qian và Nunn, khoai tây đã có đóng góp từ 23 đến 24% vào quá trình tăng trưởng dân số và khoảng từ 27 đến 34% vào công cuộc giúp con người đô thị hóa trong thời kỳ từ năm 1700 đến năm 1900.
Sự gia tăng dân số và đô thị hóa đã giúp thúc đẩy nhanh tốc độ của các quá trình cách mạng công nghiệp, đặc biệt là có sự xuất hiện của các ngành công nghiệp mới là những ngành có sự phụ thuộc vào việc khai thác, sử dụng các nhiên liệu hóa thạch.
Mối liên hệ của khoai tây và nước Pháp
Ông đã có lời nhận xét như sau: "Chỉ cần được cung cấp một mức tiền lương đủ để sinh hoạt, hoặc một thứ gì đó rất gần với mức sinh hoạt phí, một lượng lớn người di cư từ nông thôn sẽ sẵn sàng có mặt để điều khiển các máy móc mới và thực hiện tất cả các nhiệm vụ khó khăn phục vụ một xã hội đô thị hóa".
Và như một điều hết sức tự nhiên, dân số ngày càng phát triển mạnh hơn ở Châu Âu sau những mùa màng thu hoạch khoai tây sẽ có thể lấp đầy vào những hàng ngũ quân đội, hải quân đế quốc, đem lại những chiến thắng vẻ vang cho đất nước họ khi thực hiện chiến đấu những miền đất hứa xa xôi khác, những quá trình liên tiếp xảy ra như thế đã đẩy hàng triệu người dân phải di cư ra các vùng thuộc địa và di cư đến phía đông Siberia.
McNeill cũng đã khẳng định chắc chắn rằng: "Một điều chắc chắn, nếu không có khoai tây thì nước Đức sau năm 1848 không thể nào có thể trở thành một quốc gia công nghiệp và có thế lực quân sự xếp hàng đầu ở Châu Âu. Ngay cả Nga cũng không thể đe dọa đến biên giới phía đông nước Đức vào năm 1891".
Lịch sử lại lặp lại thêm một lần nữa như cái cách mà người Inca đã dùng khoai tây để phát triển thành một đế chế hùng mạnh bất khả chiến bại ở Nam Mỹ, thì mới từ giữa thế kỷ 18, khoai tây lại tiếp tục đưa một số quốc gia Châu Âu trở thành những đế quốc lớn mạnh thống trị hầu hết thế giới.
McNeill cũng đã khẳng định: "Nói tóm lại, tất cả những khả năng thống trị của châu lục này trong hai thế kỷ, từ năm 1750 đến năm 1950 bao gồm sự bành trướng và tranh giành thuộc địa của các đế quốc ở hải ngoại, hay quá trình họ nhập cư vào Hoa Kỳ cũng như các vùng đất khác trên thế giới, đều cơ bản xuất phát từ việc khoai tây đã mở rộng nguồn cung cấp thực phẩm ở Bắc Âu".
Và đây cũng chính là lần thứ hai mà khoai tây đóng một vai trò vô cùng quan trọng đến một quá trình dài giúp thay đổi xã hội loài người trên toàn thế giới.Vậy là khoai tây từ một loại cây đến ngay cả chó lợn cũng chẳng thèm ăn, thì chúng đã đóng góp một phần không nhỏ trở thành động lực cho sự thay đổi và phát triển của toàn xã hội Châu Âu cũng như trên toàn thế giới.
Kết luận
Khoai tây, từ một loại cây bị coi là “quả táo quỷ” và biểu tượng của sự độc ác, đã trải qua một hành trình lịch sử đầy biến động để trở thành một nguyên liệu không thể thiếu trong ẩm thực toàn cầu ngày nay. Trong thế kỷ 18, khoai tây từng bị cấm trồng ở Pháp do liên kết với nhiều tin đồn và niềm tin huyền bí. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực của Antoine-Augustin Parmentier, một dược sĩ, khoai tây đã dần được chấp nhận và trở nên phổ biến trên toàn Châu Âu.Theo các nhà sử học, khoai tây đã tạo nên một cuộc cách mạng nông nghiệp, chấm dứt nhiều nạn đói đã hoành hành khắp nơi trong nhiều năm tại Châu Âu. Một điều chắc chắn hơn là, nếu không có khoai tây thì nước Đức sau năm 1848 không thể trở thành một quốc gia công nghiệp và có thế lực quân sự xếp hàng đầu ở Châu Âu.
Việc tìm hiểu và lấp đầy hiểu biết về lịch sử của các loại thực phẩm mà chúng ta sử dụng hằng không chỉ giúp chúng ta có cơ hội nhìn nhận lại quá trình phát triển của nền ẩm thực thế giới mà còn giúp chúng ta hiểu biết và cónhận thức rõ ràng hơn về sự thay đổi của xã hội loài người qua nhiều tiến trình lịch sử. Mỗi loại thực phẩm đều sẽ mang trong mình một câu chuyện riêng, gắn liền một phần với lịch sử phát triển của nhân loại, và chúng đều đã góp phần tạo nên nền văn minh phát triển như chúng ta đã biết ngày nay. Khoai tây, từ “quả táo quỷ” đến một nguyên liệu quen thuộc trong bữa ăn hàng ngày, chính là một ví dụ điển hình cho sự thay đổi này.