Phán đoán và loại trừ những nguyên nhân khiến cho động cơ không thể khởi động, khó khởi động ở xe máy - Hùng Lê

Đăng lúc: , Cập nhật

Trên một chiếc xe máy động cơ được ví như sự sống của xe máy - nơi sinh công giúp xe máy có thể chuyển động, vì thế mà động cơ trên xe máy là bộ phận phức tạp nhất và cần có độ chính xác cao nhất nên chỉ cần một sai sót , sự cố nhỏ cũng có thể khiến cho động cơ xe máy không thể khởi động được, hay khởi động khó tốn nhiều thời gian hơn bình thường. Dưới đây Hùng Lê sẽ cùng các bạn tìm hiểu về cách phán đoán và loại trừ những nguyên nhân dẫn tới hệ quả đó, giúp bạn tăng thêm hiểu biết và có một cái nhìn chuyên sâu hơn về động cơ xe máy.

Tìm hiểu những nguyên nhân khiến cho động cơ xe máy không thể hoặc khó khởi động

I. Động cơ không thể khởi động

Sau khi làm xong khâu chuẩn bị trước khi khởi động động cơ trong điều kiện nhiệt độ môi trường từ -50°C-30°C, nếu cách khởi động đúng mà thời gian khởi động vượt quá 15 giây thì gọi là động cơ không thể khởi động.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc động cơ xe máy không thể khởi động
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc động cơ xe máy không thể khởi động

Động cơ xe máy gặp phải sự cố không thể khởi động dẫn tới nhiều bất tiện cho người tham gia giao thông
Động cơ xe máy gặp phải sự cố không thể khởi động dẫn tới nhiều bất tiện cho người tham gia giao thông

1. Nguyên nhân khiến động cơ không thể khởi động

Có nhiều lí do khiến cho động cơ xe máy không thể khởi động tuy nhiên thường xuất phát từ 3 nguyên nhân chính dưới đây:
  • Bugi đánh lửa quá yếu hoặc không đánh lửa.
  • Hỗn hợp nhiên liệu không thể đi vào xi lanh.
  • Áp suất nén xi lanh không đủ.

2. Phương pháp phán đoán và loại trừ

Khi phán đoán sự cố này, trước tiên phải xác định hệ thống xảy ra sự cố, sau đó tiến hành kiểm tra hệ thống này để xem sự cố xảy ra tại linh kiện nào để tiến hành loại trừ.
Bugi một trong những bộ phận quan trọng trong hệ thống đánh lửa xe máy thường được kiểm tra đầu tiên khi xe không thể khởi động
Bugi một trong những bộ phận quan trọng trong hệ thống đánh lửa xe máy thường được kiểm tra đầu tiên khi xe không thể khởi động

Để xác định hệ thống xảy ra sự cố, trước tiên phải bắt đầu từ hệ thống đánh lửa (vì tỉ lệ xảy ra sự cố ở hệ thống đánh lửa tương đối cao). Trước tiên kiểm tra xem tình trạng kỹ thuật của hệ thống đánh lửa có bình thường không. Nếu bình thường thì tiếp tục kiểm tra xem hệ thống cung cấp dầu có gặp sự cố không, cuối cùng xem xét đến sự cố máy móc bên trong động cơ. Trình tự phán đoán động cơ không thể khởi động xem bảng 4-1.
 
Bảng 4-1: Trình tự phán đoán động cơ không thể khởi động
Nguyên nhân chính khiến bugi đánh lửa quá yếu hoặc không đánh lửa đó là do bị dính muội than hoặc bị hỏng, điện áp thấp, điện áp cao hoặc sự cố tổng hợp điện áp cao, thấp. Khi phán đoán có thể tiến hành theo trình tự sau:

1. Kiểm tra bugi, hệ thống đánh lửa 

(1) Bugi bị dính muội than hoặc bị hỏng

Để kiểm tra xem bu gi bị dính muội than hoặc bị hỏng, ta thực hiện như sau:
  • Tháo bugi từ trên đầu xi lanh rồi lắp vào đầu bịt dây cao áp, để thân bugi chạm mạch với đầu xi lanh.
  • Vặn công tắc nguồn điện cho động cơ chạy, kiểm tra xem bugi có đánh lửa không.
  • Nếu tia lửa có màu trắng hoặc tím, đồng thời khi nhảy phát ra tiếng “lách tách” thì chứng tỏ tia lửa tương đối mạnh, nhưng vẫn không thể khẳng định bugi hoạt động tốt. Vì khi kết thúc hành trình nén, áp suất nén giữa các cực của bugi trong xi lanh là 6,5x105Pa- 7x10Pa, với áp suất này tia lửa tất sẽ yếu.
=> Do vậy, chỉ khi phần thân của bugi cách đầu xi lanh 3-4mm, tia lửa to và có màu xanh, chứng tỏ tia lửa tương đối mạnh. Khi thử đánh lửa xuất hiện tia lửa đỏ mà ngắn hoặc cơ bản không có tia lửa thì phải kiểm tra hệ thống đánh lửa.
Có thể quan sát tia lửa của bugi để đánh giá tình trạng hệ thống đánh lửa
Có thể quan sát tia lửa của bugi để đánh giá tình trạng hệ thống đánh lửa
 
Phương pháp kiểm tra hệ thống dánh lửa là:
  • Xoáy đầu bịt dây cao áp để đầu dây cách đầu xi lanh 4-6mm, sau đó mở công tắc nguồn điện để động cơ hoạt động. Lúc này nếu giữa đầu dây cao áp và đầu xi lanh có tia lửa mạnh thì chứng tỏ bugi bị dính muội than hoặc bị hỏng, phải kiểm tra xem giữa các cực của bugi có tích hoặc dính muội than hay không, độ hở có trong phạm vi 0-5-0,7mm hay không.
  • Khi bị tích hoặc dính muội than thì phải dùng que tăm để cạy, không được dùng các vật dụng bằng kim loại như dao để cạo. Nhưng muội than tích ở xung quanh phần thân dưới của lớp cách điện thì có thể dùng que sắt nhọn để cạy.
  • Nếu sau khi đã làm sạch muội than và điều chỉnh độ hở phù hợp mà bugi vẫn không thể đánh lửa bình thường thì chứng tỏ bugi đã bị hỏng, phải thay bugi mới và tiến hành đánh lửa thử nghiệm.
=> Nếu khi kiểm tra dây dẫn cao áp mà tia lửa yếu hoặc không có tia lửa thì chứng tỏ sự cố xảy ra tại hệ thống đánh lửa. Thường phán đoán bằng phương pháp chạm mạch, trước tiên xác định vùng xảy ra sự cố, sau đó từng bước tìm chính xác bộ phận xảy ra sự cố.

(2) Sự cố ở mạch hạ thế

Có thể nghe tiếng còi xe để đánh giá tình trạng ắc quy xe máy
Có thể nghe tiếng còi xe để đánh giá tình trạng ắc quy xe máy
Để kiểm tra sự cố ở mạch hạ thế, ta thực hiện như sau:
  • Trước tiên mở công tắc nguồn điện rồi ấn nút còi, nếu còi phát ra tiếng kêu trong thì chứng tỏ lượng điện trong ắc quy vẫn đầy, dây từ bình ắc quy đến công tắc không có vấn đề. Nếu còi không kêu hoặc kêu nhỏ thì chứng tỏ lượng điện trong bình ắc quy không đủ, phải kiểm tra bình ắc quy.
  • Tháo dây nối 2 cực dương, âm của bình ắc quy, sau đó dùng một dây dẫn cho tiếp xúc nhanh với cực dương, âm của bình ắc quy, nếu tia lửa rất nhỏ thì chứng tỏ bình ắc quy yếu điện, phải tiến hành nạp điện. Nếu có tia lửa mạnh và có tiếng "lách tách" thì chứng tỏ điện trong bình ắc quy vẫn đầy.
  • Ngoài ra, còn phải kiểm tra mạch hạ thế, trọng điểm là xem đường dây từ bình ắc quy đến công tắc nguồn có bị chập hay hở không.
Phương pháp cụ thể như sau:
  • Trước tiên nối dây cực dương của bình ắc quy, dây nối cực âm tách ra, sau đó vặn công tắc nguồn về vị trí đóng rồi chạm mạch dây nối cực âm của bình ắc quy lên thân xe để thử nghiệm.
  • Nếu không có tia lửa thì chứng tỏ đoạn dây này không có vấn đề. Nếu có tia lửa thì chứng tỏ đoạn dầy từ công tắc nguồn đến bình ắc quy bị chập.
  • Phải kiểm tra kỹ xem các dây dẫn có bị cháy, đứt hay bị mòn lớp cách điện không. Đưa tay sờ kiểm tra nhiệt độ của các dây dẫn và các thiết bị điện, nếu thấy nhiệt độ quá cao thì chứng tỏ linh kiện này đã bị hỏng.
  • Qua việc kiểm tra và phán đoán trên, khi xác định mạch hạ thế bình thường thì lại tiếp tục kiểm tra và phán đoán chỗ mạch hạ thế cao.

(3) Sự cố ở mạch cao thế.

Để kiểm tra mạch cao thế ta có thể thực hiện:
  • Mở công tắc nguồn, tách điểm tiếp xúc của thiết bị điện, tiến hành chạm mạch dây dẫn cực dương điện áp thấp của cuộn dây đánh lửa với thân xe.
  • Nếu không có tia lửa thì chứng tỏ từ công tắc đến cuộn dây đánh lửa có vấn đề.
  • Nếu có tia lửa thì chứng tỏ mạch điện bình thường. Sau đó cho chạm mạch dây dẫn cực âm điện áp thấp của cuộn dây đánh lửa với thân xe.
  • Nếu không có tia lửa thì chứng tỏ bô bin đánh lửa đã bị hỏng, phải thay cuộn dây mới.
Có 3 phương pháp kiểm tra cuộn dây đánh lửa như sau:
  • Phương pháp đối chiếu: tức là sau khi thay cuộn dây đánh lửa mới, sự cố được loại trừ, động cơ hoạt động bình thường, chứng tỏ cuộn dây đánh lửa cũ bị hỏng.
  • Phương pháp đo: dùng đồng hồ đo vạn năng lần lượt đo giá trị điện trở của cuộn dây sơ cấp và cuộn dây thứ cấp của cuộn dây đánh lửa.
+ Giá trị điện trở của cuộn dây điện áp thấp là 0,5-0,8Ω.
+ Giá trị điện trở của cuộn dây điện áp cao là 3500-5000Ω, tức bình thường.
+ Nếu giá trị điện trở quá nhỏ thì chứng tỏ bên trong cuộn dây đánh lửa bị chập.
+ Nếu cuộn dây không thông thì chứng tỏ cuộn dây đánh lửa bị hở.
  • Phương pháp thử đèn: dùng đèn 15W làm bóng đèn thử mạch điện, nối cực âm của bình ắc quy với đầu cực điện áp thấp của cuộn dây đánh lửa, nối cực dương với đầu cực điện áp cao.
+ Nếu đèn không sáng thì chứng tỏ cuộn dây điện áp cao, thấp cách điện tốt. Nếu đèn sáng thì cuộn dây điện áp cao chạm mạch bị chập, như hình 4-1 (a)
+ Sau đó chạm mạch cực âm, cực dương của bình ắc quy với đầu cực của cuộn dây điện áp cao, nếu đèn không sáng thì chứng tỏ cuộn dây điện áp cao vẫn tốt.
+ Nếu đèn sáng thì chứng tỏ cuộn dây điện áp cao chạm mạch bị chập, như hình 4-1(b)
+ Sau đó nối cực dương của bình ắc quy với đầu cực của cuộn dây điện áp thấp, cực âm vẫn chạm mạch, nếu đèn sáng thì chứng tỏ cuộn dây điện áp thấp vẫn tốt.
+ Nếu đèn không sáng thì chứng tỏ cuộn dây điện áp thấp bị hở.
+ Nếu kiểm tra bằng phương pháp thử đèn mà vẫn không tìm ra được sự cố của cuộn dây đánh lửa thì có thể dùng.
 

Phương pháp thử đèn
Hình 4-1: Phương pháp thử đèn
+ Đồng hồ đo vạn năng để đo xem cuộn dây điện áp thấp có bị chập hay không, nếu không bị chập thì chứng tỏ cuộn dây vẫn tốt.
+ Nếu thay cuộn dây đánh lửa mà vẫn không tìm ra được sự cố thì lúc này phải tiến hành kiểm tra bằng thiết bị đánh lửa CDI (tức thiết bị đánh lửa điện tử).

(4) Khi kiểm tra bằng thiết bị đánh lửa CDI

  • Trước tiên phải kiểm tra xem giắc cắm của thiết bị đánh lửa CDI có tiếp xúc tốt không, có bị long không, đối với giắc cắm bị oxy hóa, bỉ sét hoặc dính bẩn thì phải đánh bóng rồi lau sạch, sau đó lắp lại cho đúng .
  • Nếu vẫn không thể đánh lửa hoặc tia lửa rất yếu thì có thể tháo thiết bị đánh lửa CDI ra rồi dùng đồng hồ đo vạn năng (KQ) để kiểm tra giá trị điện trở giữa các đầu nối, giá trị điện trở bình thường giữa các đầu nối của thiết bị đánh lửa CDI dòng JL-JH70 xem bảng 4-2. Vị trí của các đầu nối như hình 4-2.
  • Nếu giá trị điện trở đo được không phù hợp với quy định trong bảng 4-2 thì chứng tỏ các linh kiện điện tử bên trong thiết bị đánh lửa CDI bị hỏng, phải thay cái mới. Sau khi thay hệ thống đánh lửa hoạt động bình thường, chứng tỏ sự cố đã được loại trừ.
  • Nếu hệ thống đánh lửa vẫn không đánh lửa hoặc tia lửa rất yếu thì phải kiểm tra máy từ điện.
Bảng 4-2: Giá trị điện trở các đầu nối của thiết bị đánh lửa CDI dòng JH70 (đơn vị kQ)
Bảng 4-2 Giá trị điện trở các đầu nối của thiết bị đánh lửa CDI dòng JH70 ( đơn vị đo kQ)
 

Hình 4-2: Vị trí các đầu nối của thiết bị đánh lửa CDI dòng JL-JH70
  • Nếu cuộn dây nạp điện trong phần tĩnh của máy từ điện và cuộn dây khởi động của bộ truyền cảm bị chập, hở thì hệ thống đánh lửa vẫn không thể đánh lửa, để phán đoán nguyên nhân của sự cố, tương tự cũng dùng đồng hồ đo vạn năng để đo giá trị điện trở của cuộn dây nạp điện và cuộn dây khởi động. Cách nối dây dẫn của cuộn dây nạp điện, cuộn dây khởi động trong phần tình của máy từ điện và giá trị điện trở một chiều xem bảng 4-3.
  •  
  • Bảng 4-3: Dây nối của cuộn dây stato và giá trị điện trở một chiều
Bảng 4-3: Dây nối của cuộn dây stato và giá trị điện trở một chiều
Sau khi đo, nếu giá trị điện trở không phù hợp với quy định trong bảng thì phải thay cuộn dây nạp điện và cuộn dây khởi động.
+ Nếu lớp cách điện của cuộn dây nạp điện bị hỏng thì hệ thống đánh lửa sẽ xuất hiện tia lửa yếu, làm cho động cơ khó khởi động.
+ Nếu có thể khởi động, nhưng sau khi động cơ hoạt động một lúc, đặc biệt là khi đang vận hành với tốc độ cao thì bị tắt máy đột ngột.
+ Nếu sự cố này xảy ra nhiều lần thì có thể kiểm tra tình trạng của hệ thống đánh lửa ngay khi động cơ tự dưng tắt.
+ Nếu hệ thống đánh lửa không đánh lửa thì có thể khẳng định là do lớp cách điện của cuộn dây nạp điện trong phần tĩnh của máy từ điện không tốt, lúc này phải thay cuộn dây nạp điện.
  • Do hệ thống đánh lửa của dòng xe JH70 sử dụng hệ thống đánh lửa điện dung (bằng tay) không có điểm tiếp xúc. Thường không phải điều chỉnh thời gian đánh lửa, nếu chắc chắn trong điều kiện bình thường động cơ vẫn có hiện tượng động cơ quá nóng, tính truyền động kém, bộ lọc âm thanh nổ và bốc khói đen thì có thể là do thay đổi tham số của các linh kiện điện tử bên trong thiết bị đánh lửa CDI gây ra, lúc này có thể dùng thiết bị đánh lửa CDI mới để tiến hành đối chiếu và quan sát, để loại trừ sự cố đánh lửa không đúng giờ. Nếu khi chạy xe có hiện tượng đang chạy tốc độ cao thì bị ngắt điện, sau khi giảm tốc độ thì trở lại trạng thái bình thường thì có thể là do các lớp cách điện bên trong cuộn dây đánh lửa bị hỏng, lúc này cũng dùng phương pháp thay cuộn dây đánh lửa mới để đối chiếu và quan sát, để loại bỏ sự cố.
Khi kiểm tra sự cố của hệ thống đánh lửa điện tử, phải kiên nhẫn, tỉ mỉ và tiến hành đúng tuần tự, tuyệt đối không được tháo, thay thế lung tung, để tránh gây ra những hỏng hóc không đáng có.
  • Sự cố tổng hợp ở mạch điện cao thế, hạ thế. Qua khâu kiểm tra và phán đoán trên, nếu chắc chắn mạch hạ thế, cao thế đều không có sự cố thì tiếp tục kiểm tra tình trạng hoạt động của thiết bị ngắt điện. Ví dụ, dây nối tiếp điểm động có chắc không, phần cách điện của miếng nhựa cách điện với tiếp điểm động cố định trên trục có bình thường không, miếng nhựa cách điện trên tiếp điểm động có bị mài mòn không, 2 điểm tiếp xúc có phân li chính xác và đúng giờ không, lực đàn hồi của thanh lò xo tại tiếp điểm động có bị yếu không, má kẹp của thiết bị ngắt điện có bị mòn và ảnh hưởng đến sự đóng mở bình thường của công tắc ngắt điện không, công tắc ngắt điện của thiết bị ngắt điện có bị mòn hoặc dính dầu mỡ không. Nếu bị dính dầu mỡ thì phải lấy giấy mỏng lau sạch, nếu bị mòn thì phải mài. Sau khi tiến hành kiểm tra các nội dung trên mà chắc chắn đều không có dấu hiệu khác thường thì tiếp tục mở công tắc nguồn cho động cơ chạy, kiểm tra xem má kẹp của bộ ngắt điện có đánh ra tia lửa mạnh không. Nếu tia lửa rất mạnh thì có thể là bộ điện dung (tụ điện) đã bị hỏng.
Có 3 phương pháp kiểm tra bộ điện dung như sau:
  • Phương pháp đối chiếu, tức sau khi thay bộ điện dung mới, sự cố được loại trừ, động cơ hoạt động bình thường, chứng to bộ điện dung cũ bị hỏng. Trái lại thì chứng tỏ bộ điện dung còn tốt.
  • Kiểm tra bằng dòng điện xoay chiều 220V, như hình 4-3. Ta thực hiện như sau:
+ ​Nối bóng đèn 25W vào trong mạch điện, sau đó cho một kim cách điện tiếp xúc với đầu kẹp của bộ điện dung, còn kim cách điện kia tiếp xúc với vỏ kim loại của bộ điện dung.
+ Nếu bóng đèn không sáng hoặc bóng điện phát ra màu đỏ đục thì phải tháo kim cách điện ra, cho dây nổi của bộ điện dung tiếp xúc với vỏ kim loại.
+ Nếu có hiện tượng phóng ra tia lửa mạnh thì chứng tỏ bộ điện dung còn tốt.
+ Nếu chỉ phóng ra tia lửa yếu hoặc kèm theo tiếng nổ thì chứng tỏ bộ điện dung bị rò điện.
+ Nếu cơ bản không có hiện tượng phóng điện thì chứng tỏ bộ điện dung bị hở.
+ Nếu bóng đèn sáng bình thường thì chứng tỏ bộ điện dung bị chập.
Kiểm tra bộ điện dung
Hình 4-3: Kiểm tra bộ điện dung
1 - Tụ điện; 2 - Kim cách điện; 3 - Bóng đèn 25W 4 - Dòng điện xoay chiều 220V

Lưu ý: Khi kiểm tra bằng phương pháp trên phải chú ý an toàn, bóng đèn phải lắp vào đui, kim cách điện phải cách điện tuyệt đối. Đồng thời, sau khi nạp điện cho bộ dung điện, không được trực tiếp chạm tay vào, để tránh bị bộ điện dung phóng điện mà gây thương tích.
  • Kiểm tra trên xe, tức là lần lượt dẫn ra 2 sợi dây dẫn trên 2 đầu cực của bình ắc quy, trong đó một dây nôi với đầu cực của bộ dung điện, còn một dây cho tiếp xúc với vỏ kim loại, nếu phát ra tia lửa thì chứng tỏ bộ điện dung đã bị hỏng, nếu không có tia lửa thì lại cho dây nối của bộ điện dung tiếp xúc với vỏ kim loại, nếu có hiện tượng phóng điện thì chứng tỏ bộ điện dung còn tốt, nếu không có hiện tượng phóng điện thì chứng tỏ bộ điện dung bị hở.
Trình tự phán đoán bugi đánh lửa quá yếu hoặc không đánh lửa xem bảng 4-4.
Bảng 4-4: Trình tự phán đoán bugi đánh lửa quá yếu hoặc không đánh lửa
Bảng 4-4 Trình tự phán đoán bugi đánh lửa quá yếu hoặc không đánh lửa
Qua các khâu kiểm tra và phán đoán trên, nếu xác định hệ thống đánh lửa bình thường, nhưng động cơ vẫn không thể khởi động thì phải kiểm tra hệ thống cung cấp nhiên liệu.

2. Hỗn hợp nhiên liệu không thể nạp vào xi lanh

Nguyên nhân chính khiến cho hỗn hợp nhiên liệu không thể nạp vào xi lanh là do đường dẫn bị tắc. Kiểm tra bugi đã tháo, nếu thấy bề mặt khô, khi quay động cơ, khí xả ra từ lỗ bugi khô và không có mùi, sau khi đổ một ít xăng vào trong xi lanh rồi quay thì động cơ có thể khởi động, nhưng chỉ chạy được một thời gian ngắn lại tắt, chứng tỏ đường dẫn xăng bị tắc, hỗn hợp nhiên liệu không thể nạp vào xi lanh. Lúc này phải tháo ống dẫn để kiểm tra xem có nhiên liệu hay không, nếu không có nhiên liệu thì phải kiểm tra xem trong bình xăng có còn nhiên liệu không. Nếu trong bình xăng còn nhiên liệu thì phải kiểm tra lỗ nhỏ trên nắp bình xăng, khóa ngắt xăng và bộ lọc nhiên liệu có bị tắc không. Nếu ống dẫn có xăng thì phải tháo bộ chế hòa khí để làm sạch, khai thông lỗ dầu, miệng khí, loại bỏ hết chất lắng cặn, tạo tấp và gỉ sắt. Sau khi làm sạch, lại dùng máy bơm để thổi sạch các lỗ, sau đó tiến hành khởi động thử. Trình tự phán đoán hỗn hợp nhiên liệu không thể nạp vào xi lanh xem bảng 4-5.
 
Bảng 4-5: Trình tự phán đoán hỗn hợp nhiên liệu không thể nạp vào xi lanh
Trình tự phán đoán hỗn hợp nhiên liệu không thể nạp vào xi lanh
Qua thử nghiệm chứng tỏ hỗn hợp nhiên liệu đã nạp vào xi lanh, nhưng động cơ vẫn không thể khởi động thì phải kiểm tra áp suất nén xi lanh. Vì áp suất nén xi lanh không đủ nên cũng có thể làm cho động cơ không thể khởi động.

3. Áp suất nén xi lanh không đủ

Nguyên nhân chính khiến cho áp suất nén xi lanh không đủ là do giữa đầu xi lanh và xi lanh bị rò khí, giữa tấm đệm bịt kín bugi và đầu xi lanh bị rò khí hoặc van giảm áp rò khí, bình xăng rò khí, vòng găng pít tông bị mài mòn nghiêm trọng với xi lanh, hoặc vòng găng pít tông bị kẹt mà gây rò khí, độ hở van quá nhỏ hoặc cửa xả khí bị kẹt mà gây rò khí.
Có nhiều vấn đề từ xi lanh động cơ dẫn tới áp suất nén xi lanh không đủ, ta có thể áp dụng các cách sau để phán đoán lỗi
Có nhiều vấn đề từ xi lanh động cơ dẫn tới áp suất nén xi lanh không đủ, ta có thể áp dụng các cách sau để phán đoán lỗi
Phương pháp phán đoán có thể tiến hành theo trình tự sau:
  • Rò khí giữa đầu xi lanh với xi lanh. Quay động cơ, quan sát kỹ xem mặt liên kết của đầu xi lanh với xi lanh có bọt xăng không,
+ Nếu có thì chứng tỏ chỗ tấm đệm đầu xi lanh bị rò khí, phải kiểm tra đai ốc siết trên đầu xi lanh xem có vặn chặt không.
+ Nếu thấy lỏng thì phải vặn chặt. Nếu sau khi vặn chặt vẫn thấy bọt xăng thì phải tháo đầu xi lanh ra kiểm tra xem miếng đệm có bị hỏng không.
+ Nếu hỏng thì phải thay cái mới. Khi tháo đầu xi lanh thấy bộ phận rò khí có bám muội than đen thì phải kiểm tra xem đầu xi lanh có bị hỏng hoặc vênh không, đồng thời tiến hành mài.
+ Nếu phải thay miếng đệm bịt kín đầu xi lanh thì phải dùng linh kiện thay thế của nhà sản xuất.
+ Nếu tự chế miếng đệm thì phải chú ý vật liệu và độ dày, nếu làm bằng tấm nhôm mềm thì do vật liệu quá cứng nên không thể đảm bảo độ kín.
+ Nếu dùng vật liệu phi kim loại thì khi chịu nhiệt độ cao của buồng đốt, miếng đệm dễ bị cháy hoặc hỏng.
Rò rỉ giữa đầu bò và xi lanh động cơ có thể dẫn tới áp suất nén trong xi lanh không đủ, làm cho động cơ không thể khởi động được
Rò rỉ giữa đầu bò và xi lanh động cơ có thể dẫn tới áp suất nén trong xi lanh không đủ, làm cho động cơ không thể khởi động được
 
=>Độ dày của tấm đệm bịt kín đầu xi lanh trực tiếp ảnh hưởng đến tỉ số nén của động cơ, tức độ dày tăng thì tỉ số nén của động cơ nhỏ. Trái lại thì tỉ số nén tăng. Do vậy không được tùy tiện thay đổi độ dày của tấm đệm bịt kín đầu xi lanh.
  • Rò khí giữa tấm đệm bịt kín bugi và đầu xi lanh hoặc van giảm áp rò khí. Tấm đệm bịt kín bugi bị hỏng hoặc bề mặt dính tạp chất, thậm chí quên lắp tấm đệm bịt kín bugi, đều có thể dẫn đến hiện tượng rò khí giữa tấm đệm bịt kín đầu bugi với đầu xi lanh. Khi phán đoán, phải quay động cơ rồi kiểm tra kỹ xem xung quanh bugi có nổi bọt xăng hoặc phun khí hay không. Nếu có hiện tượng rò khí thì phải lau sạch miếng đệm bịt kín bugi rồi lắp lại hoặc thay cái mới.
- Xe mô tô phân khối nhỏ CJ50 có lắp có cấu van giảm áp, nếu không thể khởi động thì có thể là do van giảm áp bị rò khí. Có 2 cách kiểm tra độ bịt kín của van giảm áp như sau:

+ Phương pháp hút khí: tháo cụm đầu xi lanh, sau đó dùng phớt cao su có đường kính trong lớn hơn đường kính củ xi lanh để ấn hút trên bề mặt xi lanh. Nếu phớt cao su không tự động phồng lên rồi rơi xuống thì chứng tỏ độ bịt kín tốt, trái lại thì bị rò khí. Khi vận dụng phương pháp này để kiểm tra độ bịt kín của van giảm áp thì phải chắc chắn độ bịt kín giữa bugi với đầu xi lanh hoặc giữa phớt cao su với mặt phẳng đầu xi lanh tốt.

+ Phương pháp thẩm thấu lỏng: để ngược cụm đầu xi lanh rồi đồ đầy xăng vào trong buồng đốt hình mặt cầu của đầu xi lanh, nếu không có hiện tượng thẩm thấu thì chứng tỏ tính bịt kín tốt, còn ngược lại thì bị rò khí.

=> Thông qua kiểm tra phán đoán, khi xác định van giảm áp bị rò khí thì phải phán đoán vị trí rò khí

Nguyên nhân thường dẫn đến hiện tượng rò khí của van giảm áp là: lò xo của van giảm áp bị gãy hoặc tính đàn hồi giảm, không thể trở về vị trí cũ, làm cho mặt tiếp xúc giữa van giảm áp với đầu xi lanh bịt kín không tốt, gây nên rò khí. Diện tích tiếp xúc của van giảm áp tích than quá nhiều hoặc có vết lõm, làm cho tính bịt kín không tốt. Cần van giảm áp cong biến dạng, khi tịnh tiến (chuyển động) qua lại trong lỗ của đầu xi lanh sẽ xảy ra hiện tượng kẹt mà gây rò khí, sau khi xác định vị trí rò khí thì phải loại bỏ kịp thời.
  • Hộp trục khuỷu rò khí. Nếu phán đoán bên ngoài động cơ mà không đoán ra sự cố rò khí thì phải kiểm tra áp suất nén của xi lanh. Thông thường có thể đồng hồ đo áp suất xi lanh. Trước tiên cho đồng hồ đo áp xuất xi lanh vào trong nút ren của bugi ở đầu xi lanh, sau đó thông qua van để tay ga ở vị trí mở hết cỡ rồi nhanh chóng quay động cơ, đồng hồ đo áp suất xi lanh phải hiện thị trên 6x105Pa. Nếu thấp hơn giá trị này thì chứng tỏ hộp trục khuỷu rò khí. Nếu không có đồng hồ đo áp suất xi lanh thì có thể tháo bugi rồi dùng ngón tay bịt nút ren của bugi, sau đó quay động cơ. Nếu ngón tay thấy có cảm giác mạnh, đồng thời trong xi lanh phát ra tiếng "phù phù" thì chứng tỏ áp suất nén tương đối cao, tính bịt kín của hộp trục khuỷu tốt. Nếu ngón tay không có cảm giác, mà quay động cơ cũng không thấy mất sức thì chứng tỏ hộp trục khuỷu rò khí hoặc giữa vòng găng pít tông và xi lanh bị rò khí. Nguyên nhân thường dẫn đến hiện tượng rò khí hộp trục khuỷu là do phớt chặn dầu của hộp trục khuỷu bị hỏng, có thể tháo các linh kiện bên ngoài phốt chặt dầu ra rồi quan sát kỹ bề mặt của các linh kiện đó xem có dính dầu hay không. Nếu không dính dầu thì chứng tỏ có thể là do vòng găng pít tông cọ xát với xi lanh gây nên.
 
  • Vòng găng pít tông và xi lanh bị mài mòn nghiêm trọng, hoặc vòng găng pít tông bị kẹt gây rò khí. Khi đã xác định hộp trục khuỷu không rò khí, có thể đổ một ít nhớt qua bugi vào xi lạnh rồi quay động cơ để tiến hành thử nghiệm. Nếu áp suất nén xi lanh tăng thì chứng tỏ vòng găng pít tông và xi lanh bị mài mòn nghiêm trọng. Phương pháp kiểm tra hiện tượng mài mòn xi lanh là: trước tiên tháo đầu xi lanh, sau đó tháo xi lanh rồi dùng thước đo lỗ để đo đường kính trong của xi lanh, dùng thước vi kế để đo đường kính ngoài của pít tông. Độ hở liên kết giữa xi lanh và pít tông có đường kính là 40mm thì không được vượt quá 0,04-0,07mm theo chiều hướng tâm, độ hở liên kết giữa xi lanh và pít tông có đường kính là 65mm hoặc 78mm thì không được vượt quá 0,1-0,13mm theo chiều hướng tâm. Nếu vượt quá giá trị này thì phải doa xi lanh hoặc thay cái mới.
=> Sự cố rò khí do vòng găng pít tông và xi lanh bị mài mòn nghiêm trọng thường hình thành từ từ. Trước tiên là giảm công suất của động cơ, sau đó dần phát triển đến mức khó khởi động, rồi dần phát triển đến mức không thể khởi động.

Vòng găng pít tông và xi lanh trực tiếp ở trạng thái chứa hỗn hợp nhiên liệu và khí thải nhiệt độ cao, sau một thời gian dài hoạt động, khe hở bên và khe hở sau của vòng găng pít tông và rãnh pít tông chứa đầy muội than, làm cho cục bộ hoặc gần hết vòng găng pít tông dính liền với pít tông, tức vòng găng pít tông bị muội than làm kẹt, đó cũng gọi - là nung kết (thiêu kết) vòng găng pít tông. Sau khi vòng găng pít tông bị nung kết sẽ làm cho độ kín của xi lanh không đảm bảo, gây rò khí bên trong xi lanh. Nếu phát hiện ra sự cố này thì cũng phải làm sạch muội than theo đúng quy định.
Chốt pít tông bị kẹt, long hoặc vòng găng pít tông bị gãy, làm cho thành xi lanh bị kéo mòn, gọi là trầy xi lanh. Sự cố này thường xảy ra bất ngờ. Khi bên trong xi lanh bị trầy nghiêm trọng sẽ gây ra hiện tượng rò khí bên trong, làm cho áp suất nén xi lanh thiếu trầm trọng, từ đó làm cho động cơ không thể khởi đồng, lúc này phải doa lại xi lanh hoặc thay cái mới.
  • Khe hở xúp páp quá nhỏ hoặc van xả bị kẹt gây rò khí. Dòng xe JL-JH70, CB125S, GL145 và CJ750 đều lắp động cơ xăng 4 kỳ, nếu độ hở van quá nhỏ hoặc sau một thời gian làm việc độ hở thay đổi thì cũng có thể làm cho động cơ không thể khởi động. Lúc này phải kiểm tra độ hở van, đồng thời phải điều chỉnh lại.
=> Nếu phát hiện van tích muội than quá nhiều và không khít với chân van thì phải tháo động cơ để làm sạch muội than. Sau đó lắp van lên xi lanh rồi đổ dầu thông qua đường nạp xả, để yên 4-5 giây.
+ Nếu giữa van và chân van không có hiện tượng thẩm thấu thì chứng tỏ độ bịt kín của van tốt.
+ Nếu độ bịt kín của van kém, có hiện tượng thẩm thấu thì phải mài lại van. Khi mài van phải kiểm tra độ nhạy của van trong ống dẫn hướng xupap.
+ Nếu van xả bị kẹt cũng có thể gây thiếu áp suất nén, lúc này phải tháo cần van xả để đánh bóng.

Trình tự phán đoán thiếu áp suất nén xi lanh xem bảng 4-6.
Bảng 4-6: Trình tự phán đoán thiếu áp suất nén xi lanh
Bảng 4-6: Trình tự phán đoán thiếu áp suất nén xi lanh

II. Động cơ khó khởi động

Thời gian mỗi lần khởi động động cơ vượt quá 30 giây, hoặc đạp cần khởi động liên tục từ 10 lần trở lên mới nổ máy đều thuộc trường hợp động cơ khó khởi động. Sự cố này phải kịp thời phán đoán và loại trừ, nếu không sẽ làm hỏng các linh kiện khác.
Xe máy khó khởi động dẫn tới nhiều phiền toái cho người dùng, tình trạng kéo dài sẽ làm hỏng các linh kiện khác
Xe máy khó khởi động dẫn tới nhiều phiền toái cho người dùng, tình trạng kéo dài sẽ làm hỏng các linh kiện khác
 
Động cơ khó khởi động có thể là do phương pháp khởi động không đúng. Ví dụ: khi khởi động lúc máy lạnh, không đóng van điều tiết không khí, hoặc không ấn bướm gió (kéo le), khiến cho hỗn hợp nhiên liệu nạp vào xi lanh quá lỏng. Khi khởi động lúc máy nóng, tắt van điều tiết không khí, hoặc ấn thiết bị làm chìm phao nhiều lần khiến cho hỗn hợp nhiên liệu trong xi lanh quá đặc, làm cho bugi bị ẩm, từ đó không khởi động được động cơ. Lúc này phải mở van điều tiết không khí và van giảm áp, hoặc tháo bugi rồi quay động cơ để xả hết dầu bên trong, sau đó khởi động lại.

1. Nguyên nhân dẫn đến động cơ khó khởi động

  • Tỉ lệ hỗn hợp nhiên liệu không đúng (chỉ động cơ dùng chất bôi trơn hỗn hợp).
  • Hỗn hợp nhiên liệu quá đặc hoặc quá loãng.
  • Bugi không đánh lửa hoặc tia lửa yếu.
  • Bình ắc quy không đủ điện.
  • Thời điểm đánh lửa không đúng.
  • Áp suất nén xi lanh không đủ.
  • Lỗ xả khí hoặc bộ giảm thanh tích quá nhiều muội than hoặc bị tắc.

2. Phương pháp phán đoán và loại trừ

Động cơ khó khởi động là một sự cố thường gặp, nguyên nhân gây ra sự cố này tương đối phức tạp, khi phán đoán trước tiên phải căn cứ vào các dấu hiệu đặc biệt để phán đoán sơ bộ hệ thống xảy ra sự cố, sau đó xác định vị trí cụ thể. Trình tự phán đoán động cơ khó khởi động xem bảng 4-7.
Bảng 4-7: Trình tự phán đoán động cơ khó khởi động
Bảng 4-7: Trình tự phán đoán động cơ khó khởi động
Phương pháp phán đoán khi khởi động chính xác, nhưng động cơ vẫn khó khởi động như sau:
  • Tỉ lệ pha chế hỗn hợp nhiên liệu không đúng.
+ Trước tiên đổ dầu vào trong bình, kiểm tra xem dầu có được pha chế đúng theo tỉ lệ quy định hay không, dầu có bẩn hoặc lẫn nước hay không.
+ Nếu trong dầu có quá nhiều nhớt bôi trơn động cơ xăng, hoặc tuy pha chế đúng theo tỉ lệ nhưng chưa pha chế đều, lúc này phải xả hết dầu trong buồng phao của bộ chế hòa khí rồi pha chế lại, hoặc lắc đều hỗn hợp khí rồi mới khởi động.
+ Nếu dầu quá bẩn hoặc có lẫn nước thì phải rửa sạch thùng đựng dầu trước rồi thay dầu mới.
  • Hỗn hợp nhiên liệu quá đặc, quá lỏng hoặc không nạp vào xi lanh.
+ Tháo bugi, nếu thấy bề mặt bugi khô, đồng thời quay động cơ thấy khí thải qua nút ren bugi khô và không có mùi thì chứng tỏ hỗn hợp nhiên liệu chưa nạp vào xi lanh.
+ Phải kiểm tra công tắc bình chứa dầu, ống dẫn và bộ điều chế xem có bị tắc không. Nếu khí thải qua nút ren bugi có mùi xăng, mà khi để tờ giấy trắng gần lỗ ren bugi thì không có giọt dầu thầm ra rõ rệt, chứng tỏ hỗn hợp nhiên liệu quá lỏng.
+ Phải đóng van điều tiết không khí hoặc ấn bướm gió (kéo le), cũng có thể trực tiếp đổ một ít dầu vào trong xi lanh rồi khởi động lại.
+ Nếu bugi rất ẩm, khí xả ra qua nút ren bugi có nhiều giọt dầu thì chứng tỏ hỗn hợp nhiên liệu quá đặc.
+ Lúc này phải mở van điều tiết không khí và van giảm áp rồi quay động cơ, chờ đến khí xả hết hỗn hợp nhiên liệu quá đặc ra rồi lắp bugi lại và khởi động.
+ Nếu vẫn không khởi động được thì phải điều chỉnh vị trí kim phao trong bộ chế hòa khí.
  • Bình ắc quy yếu điện.
+ Mở công tắc nguồn, ấn nút còi, còi phát ra tiếng vang, chứng tỏ bình ắc quy đủ điện.
+ Nếu còi phát ra tiếng rè thì chứng tỏ bình ắc quy yếu điện hoặc đầu cực của bình ắc quy tiếp xúc không tốt, phải tiến hành nạp điện hoặc duy trì trạng thái tiếp xúc tốt.
  • Bugi không đánh lửa hoặc tia lửa yếu.
  • Nếu xác định sự cố không xảy ra ở hệ thống nhiên liệu thì phải tiến hành kiểm tra hệ thống đánh lửa. Có thể tháo bugi để đánh lửa thử nghiệm.
  • Thời gian đánh lửa không đúng.
+ Nếu động cơ khó khởi động là do thời gian đánh lửa không đúng gây ra.
+ Khi khởi động động cơ, khả năng bật lên của cần đạp khởi động rất mạnh, đồng thời ở bộ chế hòa khí có tiếng “lách tách, chứng tỏ thời gian đánh lửa quá sớm.
+ Nếu cần đạp khởi động không cảm thấy mất sức, động cơ có thể đánh lửa ngắt quãng, tỉnh năng gia tốc kém, bộ giảm thanh phát ra nhiều tiếng nổ, chứng tỏ thời gian đánh lửa quá muộn.
+ Khi xe máy gặp sự cố thời gian đánh lửa quá sớm hoặc quá muộn thì phải tháo vỏ máy từ điện để kiểm tra thời gian đánh lửa theo giá trị quy định.
+ Do máy từ điện làm việc sau một thời gian dài nên bộ vít lửa (đầu tiếp xúc) của bộ ngắt điện dần bị mòn, miếng mi ca và cách điện và cam đánh lửa cũng có thể bị mòn nghiêm trọng, làm cho thời gian đánh lửa không đúng.
+ Nếu phán đoán là sự cố này thì phải điều chỉnh lại thời gian đánh lửa theo yêu cầu quy định.
  • Áp suất nén xi lanh không đủ. Kiểm tra xem áp suất nén xi lanh có đạt yêu cầu quy định không, đồng thời tiến hành kiểm tra gioăng đệm ở các chỗ liên kết của xi lanh, hộp trục khuỷu và phớt chặn dầu của hộp trục khuỷu có rò khí hay không.
  • Bộ giảm thanh ở lỗ xả khí tích quá nhiều muội than hoặc bị tắc. Kiểm tra xem lỗ xả khí và bộ giảm thanh có thông suốt không, nếu tích quá nhiều muội than hoặc bị tắc thì phải làm sạch hết muội than rồi mới khởi động.
 
gọi Miễn Phí