GIỚI THIỆU VỀ TRENCH KNIFE
“Trench Knife” dịch sang tiếng Việt là “Dao đào rãnh” hoặc “Dao rãnh” do thiết kế mũi dao nhọn. Ngoài ra, nó còn có tên gọi khác là “Knuckle Knives” có nghĩa là “Dao đốt ngón tay”, tên gọi này xuất phát từ việc chuôi của những con dao thường có vòng bảo vệ ngón tay.Trench Knife thuộc nhóm dao chiến đấu được thiết kế để tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa khả năng tấn công của kẻ thù ở khoảng cách gần, chẳng hạn như khi chiến đấu trong một hố rãnh hoặc một khu vực có diện tích giới hạn. Trench Knife được phát triển như một vũ khí chiến đấu tầm gần trong Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, khi các cuộc giao tranh chủ yếu diễn ra trong chiến hào, vì vậy nó còn có tên gọi khác là “Dao chiến hào”.
TRENCH KNIFE CỦA PHÁP
Các phiên bản đầu tiên của Trench Knife được chế tạo bởi chính những người lính hoặc thợ rèn theo pháp lệnh với mục đích âm thầm giết lính canh và đối thủ khác trong những cuộc đột kích vào chiến hào. Những chiếc Trench Knife trong thời kỳ đầu thường được rút ngắn và mài sắc giống như lưỡi lê. Một số nhà sử học trong quá trình nghiên cứu về loại vũ khí này nhận định có vài mẫu dao đào rãnh được lấy cảm hứng từ dao Bowie – một loại dao chiến đấu khác được tạo ra trong thế kỷ XIX.TRENCH KNIFE CỦA HOA KỲ
Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên đã học hỏi theo Quân đội Pháp và phát triển phiên bản Trench Knife của riêng mình. Quốc gia này đã giới thiệu ba mẫu dao rãnh liên tiếp nhau là: M1917, M1918 và Mark I (1918). Tất cả đều dựa trực tiếp hoặc gián tiếp vào những thiết kế Trench Knife trước đó của Pháp.1. Trench Knife M1917
Con dao đào rãnh chính thức đầu tiên của Hoa Kỳ là Trench Knife M1917 được thiết kế bởi Henry Disston (nhà công nghiệp người Mỹ gốc Anh) và con trai ở Philadelphia, Pennsylvania. Cha con Disston đã dựa vào kinh nghiệm chế tạo dao rãnh của Quân đội Pháp. Những con dao M1917 được đặc trưng bởi lưỡi dao hình tam giác nhọn, tay cầm bằng gỗ, có vòng kim loại bảo vệ ngón tay và một bao lưỡi dao tròn.2. Trench Knife M1918
Khi đưa vào sử dụng, M1917 tỏ ra không đạt yêu cầu và một phiên bản cải tiến là M1918 đã được thông qua trong vòng vài tháng sau đó. Khác biệt lớn nhất của M1918 so với M1917 nằm ở cấu tạo bộ phận bảo vệ khớp ngón tay đã được bỏ đi và lưỡi dao to bản hơn.3. Mark I Trench Knife
Con dao Mark I được đưa vào sử dụng vào cuối năm 1918, với kiểu dáng lưỡi dao được làm theo mẫu Couteau Poignard Mle 1916 dit Le Vengeur của Pháp. Vũ khí này được cấp cho lính Biệt động quân, lính thủy đánh bộ và các đơn vị lính nhảy dù.· Khả năng cầm một tay trong khi thực hiện các nhiệm vụ khác
· Sự nhanh chóng khi thao tác
· Độ an toàn của tay cầm, trong trường hợp người sử dụng bị choáng hoặc bất tỉnh
· Mức độ dễ mang dao khi bò ở tư thế nằm sấp thấp
· Xác suất dao bị văng khỏi tay khi vật lộn
· Mức độ phù hợp của trọng lượng, chiều dài và hình dạng lưỡi dao cũng như hình dạng của tay cầm
Kết quả thử nghiệm xác nhận rằng các thiết kế M1917 và M1918 hiện có cần phải được cải tiến. Do đó, phải có một loại Trench Knife khác thay thế cho hai sản phẩm nói trên. Mark I được các sĩ quan của AEF và Ban Kỹ thuật Quân khí Hoa Kỳ cùng nhau phát triển.
Mark I hoàn toàn khác với M1917. Sản phẩm sở hữu lưỡi dao với hai mặt cắt phẳng, một bao kiếm kim loại độc đáo và một tay cầm bằng đồng đúc có tích hợp bộ phận bảo vệ cho từng ngón tay. AEF tuyên bố rằng Mark I chính là sự kết hợp của tất cả những tính năng tốt nhất từ các loại Trench Knife trước đó.
Sản phẩm được thiết kế bởi cán bộ của AEF nhằm sử dụng trong Thế chiến thứ nhất. Dù vậy với việc đình chiến và chấm dứt chiến sự đột ngột vào tháng 11 năm 1918, hầu hết những hợp đồng sản xuất dao Mark I lúc bấy giờ đều bị hủy bỏ. Đa số các con dao Mark I do Hoa Kỳ sản xuất đều chưa bao giờ được phát hành và vẫn được cất giữ trong kho quân đội. Phải tới Thế chiến II, kho dao Mark I mới chính thức được phân phát cho những đơn vị quân đội có nhu cầu sử dụng dao chiến đấu tầm gần, mặc dù số lượng Mark I được sử dụng rất hạn chế.
Hầu hết dao Mark I được phát hành vào năm 1942 và 1943 cho những người lính nhảy dù và kiểm lâm tinh nhuệ của quân đội. Ngoài ra, một số khác được sử dụng trong nhữngđơn vị Thủy quân lục chiến, đặc biệt là lính thủy đánh bộ.
Các báo cáo thực địa của Quân đội và Thủy quân lục chiến liên quan đến tính hiệu quả của dao Mark I cho thấy: Một số người thích thiết kế này, trong khi có những người khác phàn nàn về Mark I. Họ cho rằng Mark I có lưỡi dao tương đối mỏng và dễ bị gãy ở phần tiếp giáp tay cầm lưỡi dao, đặc biệt là khi sử dụng cho các công việc hằng ngày. Các binh sĩ phát hiện ra rằng lưỡi dao không phù hợp để mở hộp đựng khẩu phần ăn hoặc thùng đạn, điều này vô cùng bất tiện. Báo cáo cũng chỉ ra rằng phần tay cầm đúc từ đồng của Mark I khá tốn kém để sản xuất với số lượng lớn. Tay cầm cũng khiến con dao khó có thể cất trong bao da thông thường. Ngoài ra, Mark I cũng nhận nhiều lời chỉ trích từ những binh sĩ vì khả năng giữ thăng bằng kém. Tay cầm được làm bằng đồng đúc khiến nó nặng và khó sử dụng, tốc độ triển khai chiến đấu tương đối chậm và khả năng thâm nhập tiêu diệt nhanh hạn chế khi sử dụng ở vai trò tấn công. Các nhà hoạch định chiến tranh của Hoa Kỳ cũng tuyên bố cần một loại dao đào rãnh đa năng có thể đáp ứng cả vai trò chiến đấu và hữu ích để sử dụng hằng ngày, đồng thời phải bảo tồn các nguồn tài nguyên kim loại của đất nước.
4. Trench Knife M3
Tiếp thu ý kiến và nhận thấy những điểm bất cập của vũ khí này, dao đào rãnh Mark I được thay thế trong quân đội bằng dao đào rãnh M3 vào năm 1943. Trong Danh mục các vật phẩm tiêu chuẩn của Hoa Kỳ năm 1943 đã giải thích: "Trench Knife M3 đã được phát triển để đáp ứng nhu cầu chiến tranh hiện đại về chiến đấu bằng tay", đồng thời sản xuất M3 cũng là để tiết kiệm nguồn tài nguyên kim loại của đất nước.Mặc dù được thiết kế cho chiến tranh tay đôi, nhưng M3 không nhận được sự khen ngợi như một con dao chiến đấu khi được cấp cho các đơn vị chiến đấu. Cân bằng tốt tốt hơn Mark I nhưng lưỡi của M3 bị chỉ trích chưa đủ để sử dụng cho các nhiệm vụ tiện ích như mở thùng đạn và hộp thực phẩm. Ngoài ram thì cạnh dao cũng hơi khó mài.
Quá trình sản xuất M3 cuối cùng chỉ diễn ra cho đến tháng 8 năm 1944. Tính tới thời điểm đó 2.590.247 dao rãnh M3 đã được sản xuất. Trench Knife M3 là con dao có thời gian sản xuất và phục vụ ngắn nhất so với bất kỳ loại dao chiến đấu nào của Quân đội Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau khi ngừng sản xuất, thiết kế lưỡi dao của M3 vẫn tiếp tục được ứng dụng trong quân đội Hoa Kỳ dưới dạng lưỡi lê. Vào tháng 8 năm 1944, Dao chiến đấu M3 đã được phát triển thành lưỡi lê cho các khẩu súng Carbine.
5. Ka-Bar USMC
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ cũng phát hành dao chiến đấu và dao tiện ích của riêng mình vào tháng 11 năm 1942 với tên gọi 1219C2, sau đó đổi tên thành dao chiến đấu USMC Mark 2 hay còn gọi là dao Ka-Bar USMC. Đây được xem một vũ khí đa năng vừa đảm bảo chức năng chiến đấu vừa là một công cụ tiện ích, khắc phục hoàn toàn nhược điểm khi dùng để mở nắp hộp hoặc thùng đạn của các con dao trước đó.TRENCH KNIFE CỦA ĐỨC
Loại dao chiến đấu tiêu chuẩn của Đức trong Chiến tranh Thế giới Thứ nhất có tên là “Nahkampfmesser” với nghĩa “dao chiến đấu tầm gần”. Hầu hết những con dao này có chuôi bằng gỗ phiến, vỏ bọc kim loại và được làm rất chắc chắn. Nahkampfmesser được sử dụng cho đến khi Chiến tranh Thế giới Thứ hai kết thúc.Lịch sử ghi nhận những con dao đào rãnh do Đức phát hành trong Thế chiến Thứ nhất là "dao thông thường, đa dụng, dùng để cắt và đâm" với lưỡi dao "phần lớn có chiều dài xấp xỉ 6 inch, có một lưỡi cắt mặc dù đôi khi cũng gặp những con dao hai lưỡi"
Các con dao đào rãnh Quân đội Đức mang theo trong Thế chiến II có thiết kế tương tự như “Boot knife” (Dao ủng), mặc dù chúng hiếm khi được mang trong ủng. Đa số cũng có vỏ thép với các kẹp có thể được gắn vào ủng hoặc quần áo. Những con dao này hầu hết đều do các nhà thầu chính phủ chế tạo và được phân phát như một vũ khí chiến đấu.
TRENCH KNIFE CỦA ANH VÀ KHỐI THỊNH VƯỢNG CHUNG
Quân đội Anh và Khối thịnh vượng chung như Úc, Canada và New Zealand đều sử dụng một loạt các loại dao rãnh trong Thế chiến Thứ nhất. Một số là mô hình thương mại dựa trên dao Bowie. Những loại khác là dao chuyên dụng như dao găm với chuôi nhôm hình trụ rất vừa vặn để cầm nắm, lưỡi dao 4 in (10 cm) đi kèm nhô ra giữa các đốt ngón tay của người dùng. Nhiều phiên bản tiêu chuẩn hóa khác nhau của Trench Knife đã được các nhà thầu chính phủ sản xuất và ban hành chính thức.Trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Dao chiến đấu “Fairbairn-Sykes” được cấp phát rộng rãi cho những lực lượng như Biệt kích Anh, Biệt kích Thủy quân lục chiến Hoàng gia, Trung đoàn Nhảy dù, Dịch vụ Thuyền Đặc biệt và Dịch vụ Hàng không Đặc biệt. Mặc dù không phải là một "con dao đào rãnh" thực sự nhưng Fairbairn-Sykes vẫn được sử dụng cho các mục đích tương tự như Trench Knife.
KẾT LUẬN
Có thể thấy Trench Knife được nhiều quốc gia sản xuất với các phiên bản khác nhau. Điều khiến những chiếc Trench Knife trở thành một trong những loại dao được sử dụng phổ biến nhất trong lịch sử quân sự thế giới nằm ở sự hiệu quả khi chiến đấu trong chiến hào. Đây là loại vũ khí với khả năng sử dụng nhanh chóng và dễ dàng trong không gian chật hẹp. Ngoài ra, chúng là một vũ khí có thể được sử dụng để tiêu diệt kẻ địch mà không phát ra bất kỳ âm thanh hay tiếng động nào, ưu điểm này hoàn toàn vượt trội hơn khi so sánh với súng hay lựu đạn.--------------------------------------------------------------------------------------------------
Công Cụ Tốt là nhà phân phối nhiều công cụ, dụng cụ sử dụng trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Quý Khách hàng có thể truy cập vào website congcutot.vn để tham khảo thêm nhiều sản phẩm với mức giá ưu đãi.