Công Cụ Tốt

Nội dung

Sự lai hoa lan - Nguyễn Công Nghiệp

Đăng lúc: Chủ nhật - 21/01/2024 22:04, Cập nhật 21/01/2024 22:04

Sự lai của hoa lan là kết quả của việc lai tạo nhân tạo giữa hai loài hoa lan khác nhau, có thể thuộc cùng một chi hoặc khác chi. Mục đích của việc lai tạo là để tạo ra các giống hoa lan mới có những đặc điểm ưu việt hơn so với loài bố mẹ, chẳng hạn như vẻ đẹp, màu sắc, mùi thơm, khả năng chịu đựng và kháng bệnh. Hoa lan lai có thể tồn tại trong tự nhiên hoặc do con người tạo ra. Hoa lan lai đầu tiên được giới thiệu ở Anh vào năm 1856 và được nhân giống bởi John Dominyi. Kể từ đó, hoa lan không ngừng được lai tạo và hiện nay có hơn 200 nghìn giống lai. Hoa lan lai là biểu tượng của sự sang trọng, trang nhã và tình yêu thuần khiết

Sự lai hoa lan

1. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC LAI

Ứng dụng những thành tựu đã đạt được của ngành di truyền học vào việc lai giống lan nhằm mục đích tạo ra nhiều giống mới, có màu sắc độc đáo, có kích thước, hình dáng, số lượng hoa... theo yêu cầu mong muốn. Sự lai sẽ tạo được một cây lan tương đối hoàn chỉnh bao gồm nhiều ưu điểm của nhiều cây khác mà trong thiên nhiên không có. Ví dụ loài lan có tên địa phương là "waling-waling" là loài lan rất đẹp của Philippin, có tên khoa học là Euanthe Sanderiana hay được gọi là Vanda Sanderiana, rất khó trồng ở vài nơi, nhưng hầu hết các cây lai của giống này như Vanda Rochildiana, Vanda Manila, Vanda Tatreri... lại trồng rất dễ dàng và phát triển rất mạnh.

2. LỊCH SỬ LAI LAN

1852, ông J. Domyni, theo lời khuyên của ông John Harris, tu si Exerter, đã quyết định sự lai chéo các giống lan Cypripedium đầu tiên, để kỷ niệm sự cộng tác đó, cây lan được lấy tên là Cypripedium Harrisianum (C.villosum x C.barbatum), nhưng thực tế tháng 10 năm 1856, mới có cây lan lai đầu tiên trổ hoa, nó cũng được lai từ năm 1852. Đây là cây lai tạo giữa 2 loài lan An Độ Calanthe masuca và Calanthe furcata, được thực hiện tại trung tâm lai tạo Messrs. Weith và Sons, Chelsa, mà ông J. Dominy là người nuôi dưỡng và chăm sóc, vì thế cây lai này được đặt tên là Calanthe Dominyi.

1863, J. Domyni, đã tạo được nhiều loài lan khác và đã làm trổ hoa cây lan đầu tiên từ 2 giống phân biệt đó là cây Laeliocattleya Exoniensis. Đây là sự lai chéo giữa 2 loài Cattleya labiata var Mossiae x Laclia crispa.

1880, ông J. Domyni về hưu, ông Seder kế nghiệp cũng đạt được nhiều kết quả rực rỡ.

3. KỸ THUẬT LAI

3.1 Nguyên tắc giao phối

Hiện nay các giống lan đã được lai từ 2, 3, 4 giống khác nhau. Những cây lan ban đầu sẽ mang tính chất trung gian về hình dáng và màu sắc của cha và mẹ. Do đó cây con thường biểu lộ ít thay đổi theo một tỷ lệ nhất định. Ví dụ các loại giao phối nổi tiếng Epidendrum O 'Brienianum (E.evectum x E.ibaguense) và loài Cymbidium Langleyense (C.devonianum x C. lowianum).

Tuy nhiên, nếu cây lai được giao phối với cây lại thứ 2 tính phức tạp di truyền biểu hiện rất rõ ở cây con, với kết quả là những biến đổi cực đoan về màu sắc và ở một mức độ nào đó về hình dáng có thể đoán trước được. Một đặc tính nữa của các cây lai như thế là đặc trưng ưu thế lai của một hay nhiều cây cha mẹ liên hệ.

Có thể sẽ rõ ràng ở cây con và thường là kết quả không tiên đóan được. Trong số cây lai, một loài trong khung cảnh gia phả ưu thế đến mức tất cả hay ít nhất một phần cây con sẽ sao lại giống hệt cha mẹ.

Ví dụ loài Zygopetalum intermedium khi thụ phấn với các loài của giống Cattleya và Dendrobium sẽ sản sinh ra hạt có sức sống và cây con khi nẩy mầm sẽ phát triển thành những cây giống y hệt loài Zygopetalum intermedium không có một sự thay đổi chọn lọc về màu sắc và hình dạng dù là bộ phận dinh dưỡng hay sinh sản. Tuy nhiên nếu cây này được giao phối với một giống cùng họ phụ hoặc các họ phụ gần nhau như Colax hay Lycaste thì sẽ được một cây lai có tên là "Zygocolax" hay "Zygocaste" có đặc tính của cả cha lẫn mẹ. Các loài Zygopetalum lai này là kết quả của sự sinh sản ở điều kiện phức tạp trong đó bầu noãn được kích thích để sản sinh ra các hạt sống được, nhưng thực sự là không thụ tinh bởi các tế bào đực trong ống phấn của cây cha mẹ thứ hai.

Cây lai 2 giống đã phức tạp, do đó cây lai từ 3, 4 giống sẽ có sự biến động rất lớn cả về hình dạng, dình dưỡng, lẫn màu sắc hơn.

Nếu vườn lan của bạn có các cây dạng sinh trưởng và phát triển tốt, nếu bạn thử nghiệm lai giống biết đâu bạn sẽ được một vài giống hoa độc đáo cho riêng mình. Lịch sử đã chứng minh rằng, các loài lan lai hiện có, cũng do sự góp phần của nhiều nhà trồng lan tài tử trên thế giới. Tuy nhiên, để bạn không nản chí, một điều quan trọng bạn cần phải nhớ là "Các cây muốn lai giống và đạt kết quả tốt, phải có sự tương hợp về mặt là truyền giữa 2 giống được lai”. Dưới đây là bảng tôm tất giống lan đã lai được với nhau thỏa mãn yêu cầu của bạn:

Adaglossium (Ada X Odontoglossum) **

Adibda (Ada X Cochlioda) **

Aeridachnis (Aerides X Arachnis) **

Aeridopsis (Aerides X Phalaenopsis) **

Aeridostylis (Aerides X Rhynchostylis) **

Aeridovanda (Aerides X Vanda) **

Angalocaste (Anguloa X Lycaste) **

Anoectomaria (Anoectochilus X Haemaria)

Arachnopsis (Arachnis X Phalaenopsis) **

Aranda (Arachnis X Vanda) **

Aranthera (Arachnis X Rehanthera) **

Armodachnis (Armodorum X Arachnis) **

Ascocendu (Ascocentrum X Vanda) **

Aspasium (Aspasia X Oncidium) **

Brapasia (Brassia X Aspasia) **

Brassidium (Brassia X Oncidium) **

Brassocattleya (Brassaavola X Cattleya) ** 1

Brassodiacrium (Brassavola X Diacrium) ** 1, 2

Brassoepidendrum (Brassanola X Epidendrum) ** 1


Brassolaelia (Brassavola X Laelia) ** 1

Brassolaeliocattleya (Brassavola X Laelia X Cattleya)

Brassophronilis (Brassavola X Sophronitis) **1

Brassotonia (Brassavola X Broughtonia) **

Burrageara (Cochlioda X Miltonia X Odontoglossum X Oncidium) ****

Cattleytonia (Broughtonia X Cattleya) **

C-harleswortheara (Cochlioda X Miltonia X Oncidium) ***

Chondrobolllea (Chondrorhyncha X Bollea) **

Chond-ropetalum (Chondrorhyncha X Zygopetalum) ***

Colmanara (Miltonia X Odontoglossum X Oncidium) **

Cycnodes (Cycnoches X Mornodes) **

Dekensara (Schomburgkia X Brassavola X Cattleya) *** 1,3

Diabroughtonia (Diacrium X Broughtonia) **

Diacattleya (Diacrium X Cattleya) ** 2

Dialaclia (Diacrium X Laclia) ** 2

Dialaeliocattleya (Diacrium X Laclia X Cattleya) ***2

Dossinimaria (Dossinia X Haemaria) **

Epicattleya (Epidendrum X Cattleya) **


Epidiacrium (Epidendrum X Diacrium) 2

Epigoa (Epidendrum X Domingoa) **

Epilaelia (Epidendrum X Laelia) **

Epilaeliocattleya (Epidendrum X Laelia X Cattleya) ***

Epilaeliopsis (Epidendrum X Laeliopsis) **

Epiphronitella (Epidendrum X Sophronitella) **

Epiphronitis (Epidendrum X Sophronitis) **

Gastocalanthe (Gastorchis X Calanthe) **

Gastophaius (Gastorchis X Phaius) **

Grammatocymbidium (Grammtophyllum X Cymbidium) **

Hawaiiara (Vanda X Renanthera X Vandopsis)***

Holttumara (Arachnis X Vanda X Renanthera) ***

Iwanagara (Diacrium X Brassavola X Laelia X Cattleya) **** 1,2

Laeliocattleya (Laelia X Cattleya) **

Leptolaelia (Leptoles X Laelia) **

Lioponia (Brassavola X Laeliopsis) **

Lowiara (Brrssavola X Lealia X Sophronitis) *** 1

Luisanda (Luisia X Vanda) **

Lycasteria (Bifrenaria X Lycaste) **


Macomaria (Macodes X Haemaria) **

Miltonidium (Miltonia X Oncidium) **

Miltonioda (Miltonia X Cochlioda) **

Odontioda (Odontoglosum X Cochlioda) **

Odontobrassia (Odontoglossum X Braassia) **

Odontocidium (Odontoglossum X Oncidium) **

Odontonia (Odontoglossum X Miltonia) **

Oncidioda (Oncidium X Cochlioda) **

Opsilaelia (Laelia X Laeliopsis) **

Opsissanda (Vanda X Vandopsis) **

Pectabenaria (Pecteilis X Habenaria) **

Phaiocalanthe (Phaius X Calanthe) **

Phaiocymbidium (Phaius X Cymbidium)**Η

Phalandopsis (Vandopsis X Phalaenopsis) ** 

Phragmipaphiopedilum (Phragmipedium X Paphiopedilum) **

Potinara (Brassavola X Cattleya X Laelia X Sophronitis) ***

Renades (Aerides X Renanthera) **

Renanopsis (Renanthera X Vandopsis) **)

Renanstylis (Renanthera X Rhynchostylis) **

Renantanda (Renanthera X Vanda)


Renanthopsis (Renanthera X Phalaenopsis) **

Ridleyara (Arachnis X Trichoglottis X Vanda) ***

Rodrettia (Rodriguezia X Comparettia) **

Rodricidium (Rodriguezia X Oncidium) **

Rolfeara (Brassavola X Cattleya X Sophronitis) ***

Sanderara (Brassia X Odontoglossum X Cochlioda) ***

Sarcothera (Sarcochilus X Renanthera) **

Schombocattleya (Schomburgkia X Cattleya) ** 3

Schombodiacrium (Schomburgkia X Diacrium) **2.3

Schomboepidendrum (Schomburgkia X Epidendrum) ** 3

Schombolaelia (Schomburgkia X Laelia) ** 3

Sophrocattleya (Sophronitis X Cattleya) **

Sophrolaelia (Sophronitis X Laelia)

Sophrolaeliocattleya (Sophronitis X Laelia X Cattleya)

Spathophaius (Spathoglottis X Phaius) **

Tanakara (Aerides X Phalaenopsis X Vanda) ***

Trichachnis (Trichoglottis X Arachnis) **

Trichocidium (Trichocentrum X Oncidium)**

Trichovanda (Trichoglottis X Vanda) **


Vancampe (Vanda X Acampe) **

Vandachnis (Arachnis X Vandopsis) **

Vandacostylis (Vanda X Rhynchostylis) **

Vandaenopsis (Phalaenopsis X Vanda) **

Vandofinetia (Vanda X Neofinetia) **

Vandopsides (Aerides X Vandopsis) **

Vuylsiekeara (Cochlioda X Miltonia X Odontoglossum) ***

Wilsonara (Cochlioda X Odontoglossum X Oncidium) ***

Zygobatemania (Zygopetalum X Batemania) **

Zygocaste (Zygopetalum X Lycaste) **

Zygocolax (Zygopetalum X Colax) **

Zygonisia (Zygopetalum X Agonisia) **


CHÚ THÍCH:

1. Các nhóm hỗn hợp nhiều giống này được xem là có giá trị, mặc dù đa số chúng gồn những giống lai trong đó có các cây lan chiếm vị trí quan trọng là Rhyncholaelia DigbyanaR. Glauca (các nhà vườn thường gọi là Brassavola), một ít Brassavola thực sự cũng được sử dụng một phần trong các nhóm này.

2. Diacrium hiện có liên quan tới giống Caularthron về phương diện thực vật học, nhưng không có ích lợi ro ràng bằng việc thay đổi tính ngữ của các tập đoàn giống lai đã hoàn tòan ổn định này.

3. Ở đây các nhóm nhiều giống này được công nhận là có giá trị, mặc dù có sự đồng thời giáng xuống phấn bên dưới Laelia của Schonburgkia.

(**) lai hai giống,

(***) lai ba giống,

(****) lai bốn giống.

Căn cứ vào bảng tóm tắt trên, ta có thể rút ra :

Việc lai giống hiện nay, chỉ thực hiện được giữa các loài trong nhóm đa thân với nhau và giữa các loài trong nhóm đơn thân với nhau. Chưa có một cây lan nào được lai tạo bằng sự thụ tinh giữa 2 loài của 2 nhóm khác biệt nói trên. Tất nhiên việc lai tạo giữa 2 loài cùng giống thì kết quả sẽ khả quan hơn 2 loài khác giống.

+ Lai cùng giống:

- Vanda Rochildiana: Vanda coerulea x Vanda sanderiana.

- Dendrobium Louis Bleriot : D. Phalaenopsis X D. Superbiens.

- Lai khác giống đối với nhóm đơn thuần:

- Aranda Arthur Dean : Arachnis flos-aeris X Vanda tricolor.

- Aranthera Rain Bow : Arachnis moschifera X Renanthera storiei.

- Aeridovanda Blue Spur : Aerides laurencae X Vanda coerulea


- Renantanda Aloha Tower : Renanthera coecinea X Vanda concolor.
 
- Renanthopsis Firefly : Renanthera storiei x Phalaenopsis denevei. 

- Vandaenopsis Blue Queen : Vanda coerulea X.P Sanderiana.

- Opsisanda Alfonce Heller : Vandopsis Lissochiloides X Vanda Manila.

- Luisianda Uniwai: Luisia teretifolia X Vanda Miss Joaquim. 

- Renanopsis Lena Rewold: Vandopsis lissochiloides X Renanthera storiei. 

- Trichovunda Ulaula: Trichogtottis brachiata X 
Vanda Sanderiana.

- Vandachnis Premier : Arachnis flos aeris X Vandopsis lissochiloides.

+ Lai khác giống đối với nhóm đa thân:

- Brassocattleya Frank Lee : Brassavola alauca X Cattleya Pavolova.

- Epicattleya Valencia: Epidendrum brachiophyllum X C. Labiata.

- Laeliocattleya Biceps : Laelia anceps X Cattleya bicolor.

- Schombocattleya Diamond Head Schomburgkia undulata X C. Skinneri.

3.2 Chọn cây mẹ 

Trước khi bắt tay vào công việc lai giống, ta phải đánh giá các đặc tính ưu việt của cây cha mẹ. Bạn muốn kết quả thật khả quan với những quả chứa nhiều hạt tốt, tỷ lệ nẩy mầm cao, cây con sống khỏe mạnh, thì sự lai giống đòi hỏi cây cha mẹ thật tốt về phương diện dinh dưỡng. Bạn có thể chọn trong vườn, để lựa các cây cùng loài. Cây nào ra hoa nhiều và đều đặn trong năm, hoa to không khuyết tật, giả hành thật to và bộ rễ phát triển... Đó là những cây cha mẹ lý tưởng mà bạn cần đến.

Ngoài ra, nếu cây được lai giống từ một cây mới được nhập nội, vừa ra hoa lần đầu trong nước, thì cây chỉ được chọn làm cây cha, vì một cây mới du nhập chưa thích nghi lắm với thời tiết Việt Nam lại là một cây mang quả, thì sức khỏe chắc chắn sút kém và cây sẽ kiệt lực. Một cây đã thụ phấn và mang quà trong năm vừa rồi, chắc chắn cây sẽ yếu đi, vì thế không nên cho cây thụ tinh trong năm kế tiếp mà phải để cho cây có thời gian nghỉ nhằm mục đích phục hồi sức khỏe. Nếu cây nói trên có nhiều đặc tính tốt không thể thay thế thì chỉ có thể tạm dùng nó như một cây cha

Trong thời gian thụ tinh, nếu ta thấy cây yếu đi rồ rệt với các giả hành và lá trở nên nhăn nheo, tốt nhất là cắt bỏ trái. Có thể bạn tiếc rẻ vì sắp đạt đều kết ban chẳng còn gì, lại mất thêm một cây giống quá trong quả, nhưng hậu quả có thể làm cho cây chết và lúc đ vườn lan mà ban đã chọn.

3.3 Cách trữ phấn khối

Đối với các loài lan khác giống, thường nở vào các mùa khác nhau, có thể sớm hoặc muộn, vì thế nếu không có phương pháp trữ phấn khối, bạn không thể nào tạo được các cây lai xa do mùa hoa nở trái nghịch. Dự trữ phấn khối sẽ đảm bảo sự nẩy mầm trong nhiều tháng, nhằm mục đích sử dụng để lai giống trong tương lai mà không giảm tiềm năng của nó.

Công việc tương đối đơn giản, phấn khối bé xíu được lấy ra từ bao phấn bằng một cái que, sau đó được đặt vào một mảnh giấy và đặt trong ống nghiệm hay một lọ thủy tinh nhỏ, các ống nghiệm này được đặt vào một chậu bao kín. Dưới đáy chậu đặt một số tinh thể hút ẩm CaCl₂ để ngăn ngừa sự hình thành các loại nấm mốc trong điều kiện ẩm Cuối cùng ta trét parafin vào miệng chậu và đặt chậu vào tủ lạnh suốt thời gian tồn trữ. Cá biệt có nhiều loài, phần khối giữ được sức sống đến 6 năm.

Chú ý : Tất cả dụng cụ dùng để tồn trữ phấn khối phải được khử trùng và thật vệ sinh. Tuyệt đối không để tay chạm vào phấn khối. Trên lọ, phải ghi rõ tên họ cây lan, ngày lấy phấn khối, tránh sự lầm lẫn và để kiểm tra sức sống của hạt phấn.

3.4 Thủ thuật lai các loài lan thông thường

- Dụng cụ gồm: Một que nhọn cỡ đầu tăm xỉa răng giấy, tất cả thật sạch.

Phương pháp :

1. Đưa que tăm ấn vào dưới bìa của nắp phần, bằng cách ấn nhẹ gót phấn sẽ dính vào que tăm và khi rút ra que tăm sẽ dính theo phấn khối, vì phấn khối có thể bị rớt do những cơn gió bất chợt hay sự rung động của bàn tay ta để một mảnh giấy sạch dưới cuống hoa để tránh phân khối rơi xuống đất. Không đụng ngón tay hay bất kỳ một dụng cụ dơ bẩn nào đến phấn khối.

2. Sau đó, đặt phấn khối nhỏ xíu lên trên bề mặt nuốm nhị cái của cây cha hoặc mẹ thứ hai, công việc này thực hiện dễ dàng nhờ bề mặt nuốm luôn luôn có chất nhầy rất dính. Phấn khối được đặt rất sát với bề mặt nuốm. Sự tiếp xúc ít hay tiếp xúc một phần sẽ không tốt cho thụ tinh. Nếu bề mặt nuốm quà nhỏ, ta giảm số phấn khối trên theo tỷ lệ. Nếu bề mặt nuốm rộng, ta đặt toàn bộ phân khối có được của cây cha trên mặt nuốm. Ví dụ 4 phấn khối cho Cattleya và 8 cho Laelia.

3. Phấn khối của loài bông lớn được đặt lên nuốm của loài có bông nhỏ, các bông lớn thường cho phần khối lớn, vì thế khi hạt phấn nẩy mầm, ống phấn mới mọc dài đến bầu noãn và gây ra sự thụ tinh. Đặt ngược lại thường không có kết quả.

4. Một nguyên tắc được đặt ra là, phẩn khối được lấy sau 3 ngày khi hoa nở đối với các loài mau tàn hoặc một tuần lễ đối với các loài hoa lâu tàn. Có như vậy, cơ quan đực và cái mới thực sự chín mùi để sự thụ tình được kết quả.

5. Không khí quá ẩm là điều kiện bất lợi cho sự thụ phấn. Các phân khối do ẩm độ cao sẽ tạo ra các vỏ bọc hình thành những chỗ lồi, điểm sơ khởi của ông phân nhưng phấn ấy không lớn lên được vì không ở môi trường thuận lợi và bị dừng lại đó. Vì thế nếu không được dùng phấn khối sẽ bị hư. Không được để phấn hoa ra ngoài khí ẩm trước khi dùng. Tốt nhất là, lấy phần hoa tại chỗ và dùng liền. Có thể được, ta mang cả hai đối tượng vào phòng kín, khô ráo để tiến hành lai tạo, hoặc chọn những ngày đẹp trời vào giữa trưa.

6. Để tránh kết quả, cho ra một cây lai hỗn hợp khó xếp loại, ta không nên đặt phấn khối của nhiều loài lên cùng nuốm của cây mẹ, tốt hơn hết chỉ nên lấy duy nhất của một cây cha muốn lai vì sự hỗn hợp phấn khối nhiều loài sẽ gây ra mức độ dị hợp tử cao.

3.5 Thủ thuật lai lan hài

Tấ cả các loài lan, đều được lai theo cách thức trên, trừ loài lan Hài thuộc họ phụ Cypripedilinae. Đây là những loài cổ nhất, với cấu trúc trụ (column) rất khác biệt với các loài khác trong họ. Đây là loài có 3 nhị đực : 2 nhị hữu thụ và 1 nhị bất thụ với cấu trúc khác biệt ở thể hình thuẫn gọi là Staminode hay Stamodium (nhị lép) nhị này dot sigma phía trước Column, 2 nhị kia với phần dạng hạt hay bột nằm phía trên của trụ, dưới và sau nhị lép. Nuốm có chất nhầy dính tương tự các lòai hoa khác. Dùng phấn khối của 2 nhị hữu thụ đặt lên nuốm nhị cái và tiến trình giống như đã nói trên. Tuy nhiên đối với lan Hài, hạt phấn nên được dùng ngay lập tức, sau khi lấy khỏi hoa (vì nó không chịu đựng một sự tồn trữ trong bất kỳ thời gian nào). Ngoài ra, không những cần có mộ tỷ lệ hạt giống nhỏ sản sinh bởi những loài lan này, mà sự nẩy mầm của hạt là, việc khó thực hiện so với các loài khác.

3.6 Thủ thuật lai Catasetum

Đối với đa số các loài thuộc giống Catasetum có cấu tạo hoa đực và cái khác nhau nên muốn thụ tinh ban phải có hoa của 2 phái.

4. KẾT QUẢ SỰ LAI  

Nếu sự lai tương hợp về mặt di truyền, thì trước tiên cuống hơi rũ xuống rồi đến các phiến hoa, bầu noãn bắt đầu lớn lên trong vài ngày, cánh và đài hoa héo rồi rụng đi. Cũng có loài hoa sau khi thụ phấn, hoa lâu tàn so với các loài lan khác như Cypripedium, Zygopetalum, Colax... hoa lại dày lên và co lại. Rồi khô đi với màu nâu nhạt. Một loài khác như Phalaenopsis lueddemaniana, có một bao hoa kiên cố và còn tăng kích thước sau khi thụ phấn, tuy rằng màu sắc có nhạt đi. Nhiều nhà trồng lan cẩn thận kẹp hay ghim lại cánh hoa, lá đài, môi bao xung quanh trụ, chỉ để lại 1,2cm mỗi hoa ngay sau khi hoa vừa thụ phấn. Cách làm này nhằm ngăn chặn nấm mốc xuất phát từ những bộ phận hoa đang thối đi.

Vỏ quả dần dần tạo nên từ bầu noãn trương phồng. Cuối cùng sẽ thành thục trong khoảng thời gian từ 6 tháng đến 1 năm sau khi thụ phấn. Tuổi thành thục của quả địa lan ngắn hơn phong lan. Ngay sau khi quả ứng vàng hay ửng nâu, ta dùng túi bằng giấy hay bằng ni lông cột chặt quanh để ngừa mất hạt. Bạn nhớ nhẹ tay, cuống lan rất dễ gãy.

Để đảm bảo tránh nhiễm nấm, hạt nên lấy khỏi trái bằng một dụng cụ khử trùng. Nếu lấy mẫu của hạt khảo sát dưới kính hiển vi để kiểm tra sinh lực của nó. Những hạt chứa một tiền phôi tròn trình ứng xanh lá cây hay ửng nâu, bên trong có một vỏ giống như màng nhện phức tạp có thể xem là hạt tốt. Trong khi đó những hạt không có tiền phôi hay có tiền phôi nhăn nhúm là vô giá trị. Tỷ lệ phần trăm hạt có tiền phôi càng cao thì tỷ lệ nẩy mầm của hạt cũng càng cao khi gieo cấy. 

Hình

5. CÂY LAN LAI

Ở Việt Nam, loài lan lai được biết đến đầu tiên là giống Cymbidium (được trồng ở Đà Lạt năm 1957), nhưng sự nhập nội này chỉ thực sự phát triển mạnh kể từ năm 1965 tại thành phố Hồ Chí Minh (bao gồm hầu hết các gióng lan lai hiện có trong khắp các tỉnh phía Nam.

Tuy nhiên, trong khoảng thời gian ấy, nhà vườn thường mua những cây lan mẹ đã lai sẵn ở nước ngoài. Ta chưa có một cơ sở lai tạo và nhân giống lan trên cơ sở khoa học, vì thế việc ghi lại phả hệ các loài lan nhập nội chưa được chính xác. Sự thiếu quan tâm này, đã làm cho những người trồng lan, thường nhầm lẫn trong việc gọi tên một số loài lan lai hiện có và nhiều khi lại lần lộn giữa lan lai và lan rừng.

5.1 Cách đặt tên lan lai

Đầu tiên mỗi loài lan lai thường được đặt những cái tên riêng biệt. Cái tên này thường để tỏ lòng tôn kính người khởi phát ra nó. Ví dụ :

Cypripedium Harrisianum.

Calanthe Dominyi.


Khi sự lai giống lan phát triển với số lượng cây lau mới quá nhiều thì cách đặt tên được sử dụng dưới nhiều hình thức. Ví dụ tên được đặt chỉ những người có liên hệ tới lan dưới bất kỳ hình thức nào hay là những bậc vĩ nhân của thế giới Cattleya Staline No. 4, Dendrobium Caesar Alba... Cũng có thể cây lan lại được đặt tên theo địa lý hoặc tên có ý nghĩa nào đó đầy sáng tạo : Vanda Manila, Dendrobium Bangkok Nighi, Dendrobium  American Beauty, Vandaenopsis Blue Queen Renanthopsis Firefly BLC Césil Simon Flammoyant.

Ngoài ra, nếu cây lai từ 2 cây cha mẹ cùng giống, thì tên giống cây lai sẽ đơn giản chính là tên giống của cây cha mẹ, nếu 2 cây cha mẹ khác giống nhau, thì tên giống của cây lai là sự ghép tên của 2 giống cha và mẹ

Ví dụ: Laeliocattleya : Laelia x Cattleya.

Phaiocalanthe : Phaius x Calanthe.


Sự ghép tên cũng tương tự đối với 3 giống :

Brassolaeliocattleya : Brassavola x Laelia x Cattleya.

Còn từ 4 giống trở lên, vì chữ ghép quá dài nên được thay thế bằng một tên khác như: Iwansgara, Polinara Burageara.

5.2 Cách viết tên khoa học và tên thương mại các loài lan lai

+ Lý do dùng tên khoa học :

Việc sử dụng tên khoa học ngày càng trở nên thông dụng, có thể nói đây là thứ ngôn ngữ dễ dàng liên hệ và cảm thông cho các nhà chơi lan trên toàn thế giới. Hoa lan ngày nay không còn bó hẹp trong phạm vi quốc gia hay khu vực mà mà một loài hoa của quốc tế. Nếu không có tên khoa học để xác định lên một loài lan thì sự khác biệt về ngôn ngữ sẽ gây khó khăn cho việc trao đổi thông tin. Theo chúng tôi, phải tạo thành tập quần sử dụng tên khoa học trong phạm vi quốc gia về lan lai cũng như lan rừng. Việc sử dụng nhầm lẫn tên địa phương sẽ gây ra nhiều phức tạp.

Nếu như có người quen mới chơi lan đề nghị bạn nhượng lại một cây bạch lan để làm giống, câu hỏi này sẽ làm bạn lúng túng không ít. Thật ra trong thế giới hoa lan có rất nhiều giống hoa trắng như Phalaenopsis, Cattleya, Cymbidium, Coelogyne, Dendrobium và ngay trong cùng một giống có rất nhiều loài có hoa trắng khác nhau.

Ví dụ : Các loài Dendrobium lai và rừng có hoa trắng sau đây:

Dendrobium crumenatum.

Dendrobium Phalaenopsis var, alba.

Dendrobium Lim Chong Min.

Dendrobium Tony White.

Dendrobium Snow White.

Dendrobium Caesar White.

Dendrobium Jacqueline Thomas pur White.

Dendrobium Wal-ter Oumea...


Ở Việt Nam đôi khi một loài lan lại có rất nhiều tên địa phương, do đó tên khoa học mới là tên chính xác.

Như lan Rhynchostylis gigantea được gọi dưới 6 tên khác nhau: lan Dai châu, lan Tai trâu, lan Ngọc điểm, lan Lưỡi bò, lan Me, Nghinh xuân lan.

Hoặc loài Cymbidium aloifolium, các tỉnh phía Nam gọi là lan Kiếm. Các tỉnh phía Bắc gọi là lan Lô hội, còn lan Kiếm dùng cho một loài hoàn toàn khác biệt Cymbidium ensifolium, loài này các tỉnh phía Nam lại gọi là Thanh ngọc.

Bạn muốn có một cây lan thủy tiên chơi Tết phải không ? Chỉ có 1 loại thủy tiên Dendrobium farmeri trong năm loài khác nhau nở hoa đúng Tết còn có các loài khác D. densiflorum, D. amabile thì nở hoa vào tháng 4, 5, D. thyrsiflorum, D. harveyanum nở hoa vào tháng 8.

Nếu có người mách bạn, Thạch hộc là loài lan có vị thuốc trị yết hầu và đau cổ, với bốn cây lan có tên Thạch hộc sau đây bạn sẽ chọn cây nào :

- Dendrobium nobile.

- Dendrobium podagraria.

- Dendrobium cretaceum.

- Dendrobium crumenatum.


Có người ngoại quốc hỏi bạn Việt Nam có lan Đuôi cáo hay không ? Nếu bạn không hỏi tên khoa học và trả lời vội vàng coi chừng lầm lẫn đấy. Vì lan Đuôi cáo (Foxtail orchids) gồm các loài có dạng hoa giống Đuôi cáo như sau:

- Rhynchostylis gigantea.

- Rhynchostylis coelestis.

- Rhynchostylis retusa.

- Aerides multiflora.


Ngoài ra nếu không có tên khoa học, bạn có thể nhầm lẫn với các cây hoàn toàn xa lạ với cây lan. Sự nhầm lẫn này không thể nào chấp nhận được :

- Lan Hoa hậu (cây móng bò) : Bauhinia purpurea họ Caesalpiniaceae.

- Thiết mộc lan (cây phất dù) : Dracaena fragrans họ Agavaceae.

- Lan Cua (một loại xương rồng) : Epiphyllum truncatum, ho Cactaceae.

- Ngoc lan : Michelia champaca, ho Magnoliaceae.

Còn biết bao nhiêu phức tạp khác mà chúng tôi không thể trình bày hết ra đây.

+ Cách viết tên khoa học:

Cách viết tên khoa học các loài lan tuy đơn giản, nhưng phải theo các qui tắc nhất định (Theo Phạm Hoàng Hộ) :

- Lan rừng :

Haemaria discolor (Ker) Lindl, var dawsoniana
Tên giống tên loài Người mô tả đầu tiên Người chỉnh ly variety tên thứ


- Dendrobium superbum Reich, in Walp.

Người trước mô tả song đề trong ấn phẩm của người sau.

- Dendrobium pulchellum Roxb. ex Lindl.

Người trước tìm, người sau mô tả,

- Habenaria commelinifolia Wall, apud, Lindl.

Người trước mô tả, người sau bổ túc thêm.

- Paphiopedilum delenatii Guillaum, 1924.

- Dendrobium phalaenopsis 


Các tên giống, loài thứ luôn luôn viết nghiêng hoặc viết đứng gạch dưới, hay viết đứng tô đậm, để nhìn vào, tên khoa học luôn luôn khác biệt với các chữ khác.

Tên giống luôn luôn viết hoa, tên loài và thứ luôn luôn viết thường.

Tên tác giả viết đứng, tất nhiên là phải viết hoa, nếu viết tắt phải có dấu chấm.

Chữ var, viết đứng, viết thường.

Thường để ngắn gọn đôi khi người ta chỉ viết tên giống loài và thứ. Còn tên tác giả và năm tìm kiếm không được viết.

- Lan lai:

- Cymbidium Jungfrau var Snow Queen.

- SetBit Aranthera Rain Bow.

- Schombocattleya Diamond Head

- Brassocattleya Frank Lee.


Chỉ trừ chữ var, tất cả các tên giống, loài thứ đều viết hoa để phân biệt với các loài lan rừng đây là nguyên tắc bắt buộc.

5.3 Sự lầm lẫn trong việc dùng tên khoa học và thương mại của các loài lan lai

Hiện nay tên lan lai được sử dụng dưới 2 danh pháp: một danh pháp thực vật đúng và một danh pháp được chấp nhận bởi các nhà vườn và những nhà lai giống lan. Ví dụ : Schomburakia, tạm thời được xem là bộ phận của Laelia, những cây lai của Schomburgkia với Laelia Schombolaelia mà danh từ kỹ thuật đúng chỉ là Laelia, tương tự giữa Schomburgkia với CattleyaSchombocattleya mà hiện nay tên đúng lại là Laeliocattleyas

Trong thời gian gần đây, một số cây lai từ Schomburgkia và Diacrium gọi là Schombodiacrium, nhưng mọi chỉ dẫm cho ta biết rằng:

Schomburgkia có liên hệ với Laelia.

Diacrium có liên hệ với Caularthron.

Do đó ở đây gặp một vấn đề nan giải, phải được các nhà danh pháp lan quốc tế giải quyết.

Loài Dendrobium Ainsuvorthii (Dendrobium heterocarpum x D. nobile) theo đăng ký của Ainsworth (1874). Kể từ lúc ấy những cây lại kế tiếp được sản sinh giữa 2 dòng cha mẹ trên đều gọi là Dendrobium Ainsworthii. Su lai giống Dendrobium heterocarpum Dendrobium nobile var. albiflorum được gọi là Dendrobium Ainsworthii. Sanderae. Sự gọi này có một sự lầm lẫn vì cây lai này hoàn toàn khác biệt với cây điển hình Dendrobium Ainsworthii.

Riêng ở Việt Nam cũng có một vài lầm lẫn, ví dụ các loài lan hiện đang trồng phổ biến như Cattleya labiata, Cattleya percivaliana, Cattleya Dowiana... gọi như thế là sai lầm về mặt thực vật, đây chỉ là những loài biển thể từ loài Cattleya labiata da dạng và phổ cập vì vậy một tên đúng cho các loài này là :

Cattleya labiata.

Cattleya labiata, var, percivalina.

Var. Dowiana.

Var. Trianaei.


Var. Wurocewiezii.

Var. Gaskelliana.

Var. Lueddemaniana.

Var. Mossiae.


Các nhà trồng lan Việt Nam thường dùng lẫn lộn giữa cây Schombocattleya Sophrocattleya cùng viết tắt là SC, SchombolaeliocattleyaSophrolaeliocattleya cũng viết tắt là SLC. Sự viết tắt này đưa đến một hậu quả rất tai hại vì loài lan SLC có họ hàng với giống Sophronitis cần nhiệt độ mát, trái lại loài lan SLC có họ hàng với giống Schomburgkia cần nhiệt độ cao hơn. Vì thế phải sửa lại chữ viết tắt là LC cho cả Schombocattleya Schombolaecattleya Schomburgkia đã nhập vào Laelia. 

Cần phải nói ở đây, loài Dendrobium phalaenopsis hoặc loài Dendrobium bigibbum. Có người cho rằng đây là loài được lai từ 2 giống Dendrobium và Phalaenopsis. Một sự lầm lẫn như thế không chấp nhận được vì không có một cây lan nào được lai từ 2 giống kể trên và ngay cả giống Dendrobium là giống mà hiện nay chưa có người nào lai tạo thành công với một giống khác. Thực ra Dendrobium phalaenopsis là một loài lan rừng có nhiều ở châu Úc và Niu Ghinê. Đây là giống Dendrobium có dạng hoa giống Phalaenopsis nên mới được đặt tên như thế, vì các giống lan lai như Dendrobium Pompadour, D. Lady Hamilton, D. American Beauty, D. Hickam Deb. Đây là những loài hoa có dạng tròn, nên chắc chắn rằng ít nhiều có họ hàng với các loài Dendrobium phalaenopsis rừng của châu Úc nói trên. Bảng phả hệ của loài Dendrobium Hickam Deb sau đây sẽ chứng minh điều đó. 




Tỷ lệ phần trăm % sự đóng góp của 4 loài Dendrobium khác nhau qua sự lai giống theo bảng phả hệ trên như sau :

  Phalaenopsis Bigibbum Taurinum Undulatum
Hickam Deb
American Beauty
Lady Fay
Anouk
Lady Hamilton
Lady Constance
Pompadour
Diamond Head Beauty
Orchidwood
Louis Bleriot
Sanders Crimson
Superbiens
71,85%
75
68,75
87,5
62,5
75
75
25
50
50
50
---
20,3125
15,625
25
6,25
25
25
12,5
50
50
25
---
50
6,25%
6,25
6,25
---
12,5
---
---
25
---
---
---
---
1,5625%
3,125
---
6,25
---
---
12.5
---
---
25
25
50

Chữ viết tắt B : là Dendrobium bigibbum

                    P: Dendrobium phalaenopsis

                    T: Dendrobium taurinum

                    U: Dendrobium undulatum.

(1) Còn gọi là TOPSY DE JONG

(2)                  LEEANUM

(3)                  BANGKOK

(4)                   SCHROEDERANUM.

5.4 Giải thích tên giông của một số lan thông dụng

Etym. (Từ nguyên học), grec, (Hy Lạp)

Aerangis Reichenbach fils, 1865.

Etym: grec, aer, không khí, và angos, tàu thủy, có lẽ liên tưởng đến cái cựa (mùi) dài của các loại khác nhau.

Aeranthes Lindley, 1824.

Etym: grec, aer, không khí, anthos, hoa hay các hoa trên không được treo dot sigma cán hoa rất mảnh chỉ vừa đủ thấy.

Aerides Loureiro, 1790.

Etym: grec, aer, không khí, liên tưởng đến đặc tính phụ sinh của những cây này.

Angraecum Bory, 1804.

Etym: tù chữ angurch, tù Mã Lai được La tinh hóa của nhiều loài trong giống gợi lại dáng dấp của Vanda hay Aerides.

Arachnis Blume, 1825.

Etym : grec, arachne, con nhện, do sự giống nhau giữa hoa và con nhện thông qua hình dạng của hoa và các vết tô điểm trên hoa.

Arundina Blume, 1825.

Etym: Latin, arundo, cây sậy, cây có dáng dấp của

 Ascocentrum Schlecter, 1913.

Etym: grec, ascos, túi, kentron, (cựa) vì cái cựa có kích thước tương đối lớn treo từ cái cánh môi, có dạng cái túi.

Bletia Ruiz và Pavou, 1794.

Etym: giống do Pou Luis Blet, cùng thời với các cuộc thám hiểm của Ruiz và Pavou tại Pêru và Chilê, 1777 - 1788.

Brassavola R. Brown, 1813.

Etym: giống do Brassavolo, nhà thực vật học Ý.

Brassia R. Brown, 1813.

Etym: giống do William Brass, nhà thực vật học đi chu du 

Brassocattleya Hort.

Etym: từ Brassavola và Cattleya.

Brassolaeliocattleya Hort.

Etym: tên gộp từ 3 giống Brassavola, Lealia và Cattleya, là các bố mẹ của cây lai này. 

Bulbophyllum Petit Thouars 1822.

Etym: grec, bulbos, hành và phyllum, lá, có lá trên ngọn các hành.

Calanthe R. Brown, 1821.

Etym: grec, kalos, đẹp và anthos, hoa, hoa dep.

Catasetum L. C Ric-hard, 1822. 

Etym: grec, kata, trên và Latinh, sela, lua. Ở các loài được mô tả đầu tiên thì trụ nhị nhụy mang hai sợi lụa dài.

Cattleya Lindlet, 1824.

Etym: giống do Wiliam Cattley, người chơi lan Anh nỗi tiếng và là người trồng những cây hiếm có tại Herth (Anh).

Coelogyne Lindley, 1825.

Etym: grec, koilos, trùng (rồng) và gune, cái (+). Nhụy thì rỗng.

Cyénoches Lindley, 1833.

Etym: grec, kynos, thiên nga, và auchen, cổ. Trụ nhi nhụy của hoa đực dài uốn cong như cổ thiên nga.

Cymbidium Swartzm 1799.

Etym: grec, kumbols, hốc. Cánh môi hình lõm như là rồng lõm.

Cypripedium Linne, 1753.

Etym: grec, kypris, vệ nữ, pedi (1) on, dép mềm đi ở nhà. Hài của vệ nữ.

Dendrobium Swartz, 1799.

Etym : grec, dendron, cây gỗ và bioo, sống. Giống phụ sinh trên cây gỗ.

Doritis Lindley 1833.

Etym : grec, dory, lao, vì cánh môi nhọn. Theo ý kiểu khác thì cây này có thể do Doritis, một trong những tên của Nữ thần Aphrodite.

Epidendrum Linne, 1763.

Etym : grec, epi, trên và dendron, cây gỗ. Cây phụ sinh sống trên cây mộc.

Eria Lindley, 1825.

Etym: grec, erion, len (ni). Là của một vài loài làm như có lông to.

Euanthe Seblecter, 1914.

Etym: grec, euanthes, sự ra hoa, do vẻ đẹp của các hoa của chúng.ug

Habenaria Wildenow K.L., 1805.

Etym: Latinh, habena, dây cương, dây cánh hoa thường có dạng một cái cựa.

Haemaria Lindley, 1826.

Etym: grec, haima, màu. Lá của một vài loài màu tía ở mặt dưới.

Laelia Lindley, 1831.

Etym: giống do Caius Laelius, nhà triết học và diễn giả La Mã 

Laeliocattleya.

Etym: từ Laelia và Cattleya.

Lycaste Lindley, 1843.

Etym: giống do Lycaste, người đàn bà của thời cổ nổi tiếng nhờ vẻ đẹp.

Masdevallia Ruiz và Pavou, 1794. 

Etym: giống do Joseph Masdeval, nhà thực vật học Tây Ban Nha.

Maxillaria Ruiz và Pavou, 1794.

Etym: Latinh, maxilla, hàm. Hoa của vài loài giống cái hàm.

Miltonia Lindley, 1837.

Etym : giống do bá tước F. W. Milton, nhà chơi lan Anh. in agrumib

Oncidium Swartz, 1800.

Etym: grec, ogkos, khối u. Các củ ở gốc của cánh môi giống như khối u.

Paphiopedilum Pfitzer, 1886.

Etym: grec, paphia, từ paphios, tính ngữ của Vénus (Vệ nữ), pedilon, hài, vì cánh môi có dạng một cái guốc.

Pahius Loureiro, 1790.

T Etym: grec, phaios, nâu. Màu nâu là màu ưu thế của giống, bei weilu sus

Phalaenopsis Blume, 1825.

Etym: grec, phalaina, bướm và opsis, sự giống nhau. Trong một số loài, các hoa giống con bướm.

Phragmipedium Rolfe, 1896.

Etym: grec, phragma, sự ngăn, sụ phân chia và Pedi (1) on, guốc, liên tưởng đến các sự phân chia của bầu noàn “ba mắt” và cành hoa dạng guốc.

Renanthera Loureiro, 1790.

Etym : grec, rên, thận, và anthera, bao phẩn. Bao phấn có dạng một cái thân, một hạt đậu.

Ryncholaelia Schlecter, 1918.

Etym: grec, rynchos, mõm và Laelia, giống lan. Liên tưởng đến trái kéo dài so với trái của Laelia.

Saccolabium Blume, 1825.

Etym: Latinh, saccum, túi và labium, môi. Cánh môi có dạng cái túi.

Schomburgkia Lindley, 1838.

Etym : giống do Dr. Ric-hard Schomburgk, nhà thực vật học đi chu du.

Sophronitis Lindley, 1828

Etym : grec, sôphron, khiêm nhường. Cây có kích thước nhỏ.

Thunia Reichenbach fils, 1852

Etym: giống cho bá tước von Thun Hohenstein de Tetschin.

Vanda R. Brown, 1795.

Etym: Vanda, từ của tiếng Phạn của nhiều loài thuộc giống này.

 Vanilla Swattrtz, 1799. 

Etym : từ tiếng Tây Ban Nha vanilla, quả đậu nhỏ.

Zygopetalum Hooker, 1827. 

The Etym: grec, zygon, sự nối liền, sự liên hệ và petalon, cánh hoa. Các bộ phận của bao hoa, (lá đài và cánh hoa) được gắn vào gốc (đế) của trụ cột. 

Thanh đạm


Bầu rượu



 

Bài viết liên quan