Phòng trừ sâu bệnh hại khoai tây - Khang Việt

Đăng lúc: , Cập nhật

Phòng trừ sâu bệnh hại khoai tây đã được nhà sách Khang Việt biên soạn và xuất bản.

Phòng trừ sâu bệnh hại khoai tây đã được nhà sách Khang Việt biên soạn và xuất bản.

Phòng bệnh héo xanh khoai tây

Nhận biết:

+ Bệnh héo xanh do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum gây hại, làm cây héo đột ngột. Bệnh thường hại nặng trên cây rau đã trưởng thành, đang ra củ mạnh. Trên cây bị bệnh, lá vẫn còn xanh, có thể héo từng cành hoặc toàn cây.

+ Lá cây bị bệnh có thể hồi phục một vài ngày vào buổi sớm và ban đêm khi sương xuống độ ẩm không khí cao. Đoạn thân, cành bị bệnh thường sùi nốt nhỏ xung quanh. Nếu cắt đôi thân, cành cây bị bệnh nhìn rõ thấy bó mạch hoá nâu chứa dịch nhờn màu trắng đục. Bệnh lây lan rất nhanh, làm chết 30 – 70% số cây trong ruộng.

+ Vi khuẩn thích hợp trong điều kiện nhiệt độ 25 35°C, mua to, mua dài ngày, âm độ đất, âm độ không khí tăng cao. Vi khuẩn xâm nhập, lây lan từ cây bệnh hoặc ngoài môi trường vào cây khoẻ qua vết thương trong quá trình thao tác bổ củ giống, bấm ngọn, tỉa lá hoặc do mưa to làm dập lá. Bệnh hại nặng trong vụ khoai sớm và khoai vụ xuân. Nguồn bệnh cho năm sau là vi khuẩn trong đất, vi khuẩn có thể sống lâu trong đất tới 5 – 6 năm và trên tàn dư cây bệnh vụ trước, đặc biệt có nhiều trong phân chuồng tươi chưa ủ.

Cách phòng bệnh:

+ Chọn giống khoai sạch bệnh, giống khoai tây kháng bệnh héo xanh để trồng. Vệ sinh dao bổ củ khoai tây giống bằng nước xà phòng đặc mỗi khi bổ củ để phòng nguồn bệnh lây lan từ củ giống bị bệnh sang củ khác qua lưỡi dao.

+ Luân canh đất trồng các cây cùng bị hại như cây họ cà (cà chua, khoai tây, cà pháo, cà bát), họ đậu (lạc, đậu xanh) với cây trồng khác tốt nhất là lúa. Ruộng khoai bị bệnh héo xanh vụ trước cách khoảng 7 năm mới trồng vụ khoai mới.

+ Nếu đất quá chua, độ pH<5 các vi sinh vật có ích kém phát triển cần bón 20 25kg vôi bột/sào Bắc bộ trước khi trồng khoai 7 10 ngày. Không bón phân chuồng chưa ủ hoai mục cho khoai. Bón đầy đủ và cân đối các loại phân vô cơ, phân vi lượng làm cây sinh trưởng khoẻ mạnh gia tăng khả năng chống chịu bệnh cho cây.

+ Nên sử dụng chế phẩm Penac p và siêu phân bón NEB - 26 cho khoai. Hai sản phẩm này làm hoạt hoá tăng số lượng các vi sinh vật hữu ích có lợi, ức chế vi sinh vật có hại. Nhiều hộ nông dân ở huyện Hiệp Hóa, tỉnh Bắc Giang sử dụng hai sản phẩm này cho khoai tây vụ đông giai đoạn 2007 - 2008 kết quả cho thấy làm giảm 50 – 70% mức độ nhiễm bệnh héo xanh vi khuẩn, giảm 50% lượng phân đạm, tăng tới 30% năng suất khoai, đất trồng khoai được cải tạo màu mỡ tơi xốp hơn.

Hiện nay chưa có thuốc đặc trị bệnh héo xanh vi khuẩn cho khoai tây. Khi bị bệnh, nhổ bỏ cây bị bệnh đem chôn hoặc đốt, đồng thời phun một trong các loại thuốc trừ vi khuẩn sau để hạn chế lây lan: Ditacin 8L; Physan 20EC; Staner 20WP; Sasa 20WP; Hoả tiễn 50WP...
Phòng bệnh héo xanh khoai tây
Phòng bệnh héo xanh khoai tây

Phòng trừ bệnh thối ướt củ khoai tây

Triệu chứng bệnh:

Ở những củ bị bệnh thối ướt vỏ thường chuyển màu nâu, nâu sẫm, củ mềm. Trên bề mặt củ bệnh, ở phần mô bệnh đôi khi thấy có bọt nước màu vàng, mùi thối khó ngửi. Nếu cắt củ bệnh sẽ thấy thịt củ bị thối nát, có màu vàng nâu. Trong điều kiện bảo quản không đúng kỹ thuật như quá ẩm, thiếu ánh sáng, nhiệt độ tương đối cao thì bệnh thối ướt sẽ phát sinh phát triển mạnh. Đồng trong điều kiện ngoại cảnh đó bệnh thối khô do nấm Fusarium cùng xâm nhập gây bệnh.

Nguyên nhân và đặc điểm phát sinh, phát triển bệnh:

+ Bệnh thối ướt củ khoai tây do vi khuẩn Erwinia sp gây hại. Đây là loại bệnh phổ biến và gây thiệt hại nghiêm trọng đối với khoai tây trong quá trình bảo quản, cất giữ, chuyên chở và xuất nhập khẩu. Việc nghiên cứu về đặc điểm sinh học, xác định loài và dạng chuyên hóa của vi khuẩn gây thối ướt củ khoai tây đã được tiến hành ở nhiều nước trên thế giới như: Pháp, Anh, Mỹ, Hà Lan, Đức...

+ Hiện nay, theo những kết quả của các nhà khoa học vi khuẩn gây thối ướt củ khoai có ba dạng: Erwinia carotovora p.v. cardovora; Erwinia carotovora p.v. atroseptica và Erwinia carotovora p.v. chrysanthemi (Jones) Dye. Vi khuẩn gây bệnh là loài đa thực, ký sinh và gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau. Vi khuẩn hình gậy, hai đầu hơi tròn, có 2 – 8 lông roi bao quanh mình. Nuôi cấy trên môi trường pepton saccaro, khoai tây - agar khuẩn lạc có màu trắng xám, hình tròn hoặc hình bầu dục không đều, bề mặt khuẩn lạc ướt. Vi khuẩn không có vỏ nhờn, nhuộm gram âm, háo khí, dịch hóa gelatin, tạo H2S, thuỷ phân tinh bột, không tạo NH3. Trên môi trường có TZC khuẩn lạc của vi khuẩn có màu đỏ ở giữa, rìa ngoài màu trắng. Đó là đặc trưng để nhận biết loại Erwinia sp.

Vi khuẩn phát triển thuận lợi trong phạm vi nhiệt độ khá rộng, nhiệt độ thích hợp nhất là 27 – 32°C, nhiệt độ tới hạn chết là 50°C; phạm vi pH cũng khá rộng từ 5,3 9,2, thích hợp nhất là pH 7,2. Vi khuẩn có thể bị chết trong điều kiện khô và dưới ánh nắng.

Vi khuẩn xâm nhập chủ yếu qua vết thương, qua mắt củ. Vi khuẩn tồn tại trong đất, trong tàn dư củ khoai tây. Vi khuẩn lan truyền bằng dịch củ bệnh trong quá trình bảo quản, cất trữ. Trên đồng ruộng vi khuẩn lan truyền chủ yếu nhờ nước, gây hiện tượng thối đen thân cây khoai tây.
+ Bệnh thối ướt củ khoai tây phát sinh, phát triển mạnh trong điều kiện nhiệt độ cao và ẩm độ cao. Trong quá trình bảo quản, cất trữ trên giàn, trong kho bệnh thối ướt có thế phát sinh; mức độ bị bệnh nặng hay nhẹ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố nhiệt độ, ẩm độ và chất lượng củ giữ vai trò quyết định.

+ Bệnh có thể phát sinh ngay từ khi khoai tây mới thu hoạch và kéo dài trong thời gian bảo quản. Nhìn chung, bệnh thối ướt củ khoai tây xuất hiện với tỷ lệ thấp ở tháng 1 đến tháng 3 bởi vì giai đoạn này nhiệt độ thấp, không thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhiễm gây bệnh. Khi nhiệt độ tăng dần, độ ẩm cao bệnh xuất hiện và phát sinh gây hại củ. Trong những tháng mùa hè bệnh thối ướt củ phát triển mạnh nhất, cao điểm của bệnh vào các tháng 6, 7, 8. Bệnh tiếp tục phát sinh gây hại và mức độ bệnh giảm dần khi điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi cho vi khuẩn gây thối ướt củ khoai tây (tháng 10-12).

+ Diễn biến bệnh thối ướt củ khoai tây trong bảo quản phụ thuộc vào các giống khoai tây khác nhau. Hầu hết các giống đều bị bệnh thối ướt phát sinh gây hại, tuy nhiên mức độ bị bệnh có sự khác nhau. Các giống khoai tây bị thoái hóa, chất lượng củ thấp, hàm lượng nước cao bị nhiễm bệnh nặng, điển hình là giống khoai tây
Thường Tín... Ngược lại, các giống khoai tây mới nhập nội nguyên chủng, giống cấp 1, do chất lượng giống tốt, mức độ bị bệnh thấp như giống Diamon, Nicola... Giống khoai tây của Trung Quốc được nhập gần đây ở một số vùng bệnh thối ướt củ phát sinh phát triển tương đối cao.

+ Chất lượng củ và kỹ thuật bảo quản có quan hệ chặt chẽ tới bệnh thối ướt. Nếu củ khoai tây được chọn đủ tiêu chuẩn: về độ lớn, đồng đều, không sây sắt vỏ, lấy củ ở những ruộng ít hoặc không bị bệnh đen chân và các loại bệnh khác thì mức độ bị bệnh thối ướt về sau thường nhẹ. Mặt khác điều kiện bảo quản tốt như kho phải thông thoáng, có ánh sáng, giàn đúng kỹ thuật, khoai xếp thành từng lớp mỏng sẽ hạn chế bệnh phát sinh và tỷ lệ củ thối sẽ giảm rõ rệt. Tốt nhất bảo quản củ giống trong kho lạnh, nhiệt độ thấp.

Ngoài ra, kỹ thuật chăm sóc, bón phân cho cây khoai tây, đặc biệt là kali cũng có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng củ trong bảo quản và đến sự phát sinh và gây hại của bệnh thối ướt trong bảo quản.
Biện pháp phòng trừ:

Vi khuẩn gây thối ướt là loài đa thực, phá hại xâm nhiễm nhiều loại cây trồng khác nhau. Vì vậy, biện pháp phòng chống bệnh thối ướt trong bảo quản cần phải thực hiện các khâu sau đây:

+ Chọn lọc củ đủ tiêu chuẩn, củ khoẻ không bị xây xát trước khi bảo quản.

+ Trước khi bảo quản không đổ khoai tây thành đống củ, cần phải giàn thành từng lớp, hong nhẹ dưới ánh sáng tán xạ để giảm bớt lượng nước, vỏ củ khô và dần chuyển thành màu hơi xanh.

+ Khoai bảo quản trong kho lạnh. Nếu bảo quản trong kho thông thường thì củ giống được giàn thành từng lớp trên giàn bảo quản, đúng kỹ thuật. Kho thông thoáng, đủ ánh sáng, nên có hệ thống quạt thông gió để giảm bớt độ ẩm trong kho, tạo điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi cho bệnh phát sinh phát triển, nhất là các tháng mùa hè.

+ Thường xuyên kiểm tra, phát hiện sự xuất hiện mống bệnh, loại bỏ củ thối kịp thời. Ngoài ra, cần có các biện pháp phòng trừ gián, chuột, rệp và các đối tượng gây hại khác để hạn chế con đường lan truyền qua các vết thương cơ giới.

+ Biện pháp hiệu quả nhất là bảo quản khoai tây trong kho lạnh cho phép giảm tới mức thấp nhất bệnh thối ướt củ. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế hiện nay biện pháp này ít được áp dụng.

Bệnh mốc sương khoai tây và cách phòng trừ

Bệnh mốc sương khoai tây có nguồn gốc từ Nam Mỹ, nơi đây cũng chính là nguồn gốc ra đời của cây khoai tây. Sau đó bệnh đã lan ra các nước châu  u, châu Á... cùng với việc di thực của cây này. Bệnh được chính thức xác định đầu tiên năm 1930 ở Đức, 15 năm sau (1845 1848) bệnh trở thành dịch nguy hiểm ở Bắc  u, đặc biệt ở Ireland. Hiện nay bệnh phổ biến và gây hại rất lớn ở các vùng trồng khoai tây trên thế giới và ở nước ta.
Bệnh mốc sương khoai tây và cách phòng trừ
Bệnh mốc sương khoai tây và cách phòng trừ

Tác nhân gây bệnh:

Bệnh mốc sương khoai tây do nấm phytopthora inbestans de bary gây ra.

Nấm Phytopthora inbestans là nấm ký sinh chuyên tính, sống trong tế bào thực vật tạo thành những vòi hút sinh sản vô tính chủ yếu tạo bào tử phân sinh (conidi) trên các cành conidi đâm nhánh hơi phình rộng. Cành conidi tương đối, dài, conidi đơn độc hình trứng hay hình quả chanh. Chỉ có một conidi trên đỉnh nhánh tạo cho bề mặt của bộ phận bị bệnh có màu trắng rất dễ nhận dạng.
Điều kiện phát sinh, phát triển:

+ Bệnh mốc sương khoai tây gây bệnh nhờ những bào tử, chúng có thể phát tán nhờ gió chuyển từ nơi này sang nơi khác, cây này sang cây khác. Bào tử theo mưa, nước tưới xuống đất, xâm nhập vào củ, phát sinh chủ yếu khi củ bắt đầu hình thành gây hại trực tiếp đến năng suất.

+ Bệnh có quan hệ chặt chẽ với thời tiết như: lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ. Nếu nhiệt độ thấp hơn 20°C + mưa (hoặc sương) bệnh phát triển liên tục. Nếu vườn khoai tây được bón đạm nhiều, mất cân đối hoặc trồng quá dày, tiêu thoát nước kém, việc trồng khoai tây liên tục không có thời vụ rõ ràng, xen kẽ, không phân khu vực là những điều kiện thuận lợi để bệnh phát sinh và phát triển.

+ Ở nước ta bệnh phá hại nặng trong những năm có thời tiết ẩm ướt, rét và mưa kéo dài, trời có nhiều sương mù, nhiệt độ dưới 20°C. Ở miền Bắc bệnh phá mạnh từ tháng 12 đến tháng 2.

+ Đà Lạt là vùng cao nguyên có khí hậu ôn hòa, hội tụ đủ những điều kiện thuận lợi cho bệnh tồn tại và phát triển quanh năm. Hầu hết những giống khoai tây hiện có trong sản xuất tại Đà Lạt đều bị nhiễm bệnh, ở mức độ nặng nhẹ khác nhau. Mức độ bệnh còn phụ thuộc vào mùa vụ. Mùa mưa (từ tháng 4 – 5 đến tháng 9 – 10) bệnh gây hại nặng và ảnh hưởng lớn đến năng suất, vào mùa khô mức độ bệnh giảm đi rõ rệt. Số liệu điều tra chuyên ngành qua 2 năm 1991 - 1992 cho thấy rõ tình hình bệnh mốc suong khoai tây trên địa bàn Đà Lạt như sau:

Triệu chứng bệnh:

Để phòng trừ đạt kết quả tốt, trước hết chúng ta cần phân biệt và xác định đúng bệnh.

+Triệu chứng trên lá:

Vết bệnh màu nâu, lan rộng dần từ chóp lá vào trong phiến lá hoặc ở cọng lá vào phiến lá hoặc ở mép lá lan vào trong tạo thành từng đám mô bị thối nâu, nhũn khi ẩm ướt hoặc khô khi trời nắng. Mặt dưới vết bệnh bao phủ một lớp nấm trắng như sương muối.
+ Triệu chứng trên thân, cành:

Bị bệnh từng đoạn dài, vỏ và ruột thân thôi ướt màu nâu đen. Chỗ bị bệnh nhỏ tóp lại có khi chỉ một phía thân bị thối. Khi ẩm ướt, trên vết bệnh có lớp nấm trắng như sương muối bao phủ. Phía trên chỗ bị bệnh, lá héo dần. Cành, thân bị bệnh dễ bị gãy gục làm tan cây xo xác.

+ Triệu chứng trên củ:

Trên mặt củ, vết bệnh có màu nâu lõm xuống, to nhỏ khác nhau. Khi cắt ngang củ ở chỗ bị bệnh, từ ngoài vào trong ruột có từng chòm mô bị thâm nâu lan rộng vào phía trong. Phát sinh lớp nấm trắng mịn.

Phòng trừ:

Sau khi đã xác định đúng bệnh, chúng ta phải sử dụng tổng hợp các biện pháp để phòng trừ.

+Chọn giống chống bệnh:

Đây là biện pháp cho hiệu quả kinh tế cao nhất. Những giống khoai tây hiện nay đang được trồng trên địa bàn Đà Lạt như 012 (Atzimba), 06 (CFK - I 69-1), 04 (B71 - 2402), Marriella, 07... hầu hết đều bị nhiễm bệnh ở mức độ khác nhau. Do đó, trong khi chưa có những giống vừa cho năng suất cao, phẩm chất tốt lại kháng được bệnh thì với bộ giống hiện có chúng ta vẫn có thể cố gắng sàng lọc để đưa vào trồng trong mùa mưa như giống 07. Mùa khô chúng ta có thể trồng được hầu hết các giống. Theo kết quả nghiên cứu tuyển chọn và lai tạo giống của Trại Nghiên cứu giống khoai tây (Viện cây lương thực thực phẩm) đặt tại Thái Phiên, đến giai đoạn năm 1994 - 1995 có khả năng sẽ đưa vào sản xuất 2 giống có nhiều ưu điểm, giải quyết khó khăn hiện nay cho sản xuất.

+ Chọn củ giống hoặc cây giống tốt, khỏe mạnh và sạch bệnh.

+ Bón phân:

Bón phân phải cân đối, bón tập trung, không nên bón nhiều đạm (đạm phải bón sóm), không được trồng quá dày, phải có chế độ đầu tư chăm sóc thỏa đáng. Vườn khoai luôn được thông thoáng, sạch cỏ dại và tàn dư cây trồng.

+ Đất:

Đất phải được tơi xốp, thoát nước và bắt buộc phải được luân canh.
+ Biện pháp hóa học:

Hiện nay việc dùng thuốc để phòng trừ bệnh mốc sương, khoai tây nhằm giữ vững và nâng cao năng suất là biện pháp không thể thiếu được. Do đó, nhà nông cần phải biết nên sử dụng thuốc gì, khi nào sử dụng và sử dụng như thế nào để cho hiệu quả phòng trừ và hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay cần tập trung một số loại thuốc như sau:

Bơm thuốc phòng bệnh định kỳ để tạo lớp áo giáp bên ngoài, tránh sự xâm nhập của bào tử, nên dùng Zineb: 30 - 50g/bình 10 lít; Bordeaux 1%, định kỳ phun 3 5 ngày/lần vào mùa mưa và 5 - 7 ngày/lần vào mùa nắng.

Khi thấy bệnh xuất hiện với tỷ lệ 10% trở lên cần dùng xen những thuốc có khả năng diệt trừ bệnh như: Ridomil MZ 72 WP: 25 - 30g/bình 10 lít; Mancozeb 80 BHN: 25-30g/bình 10 lít.

Chú ý: Lượng nước dùng để bơm biến động theo tuổi cây trồng (phải đạt từ 400 - 800 lít/ha).

• Sau khi phun, thuốc phải được rải đều trên khắp bề mặt thân cành lá, nhất là mặt dưới lá và những vị trí thân cành bị bệnh. Tranh thủ bơm thuốc khi trời khô ráo, không có mưa. Mùa nắng nên bơm sáng sớm hoặc chiều mát.

• Khi thu hoạch, phải chọn ngày nắng ráo rải đều củ trên mặt luống, phân loại củ ngay tại ruộng, củ để giống phải được xử lý thuốc trước khi cất giữ. Nhẹ nhàng vận chuyển tránh sây sát. Phải xử lý những tàn dư thân lá củ bệnh khi thu hoạch bằng những biện pháp như: Chôn, ủ, đốt... để tránh nguồn bệnh cho vụ sau.
 
gọi Miễn Phí